Với xứ Huế, thi sĩ dị thường Bùi
Giáng đã định danh bởi hai câu thơ như sấm truyền khiến hậu thế khi nói về Huế
đều trích dẫn. Nhưng hình như không thấy ai để tên của bài thơ đó và cũng chỉ
thấy mọi người trích đúng hai câu thơ khiến nó đi vào trong dân gian một cách
không đầy đủ. Trong những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, tôi thường đi tìm
kiếm sách cũ, tình cờ thấy được chùm thơ của Trung niên thi sĩ in trong tạp chí
Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh, lẫn lộn với những tạp chí Sáng Tạo, Văn,
Thời Nay… Đọc chùm thơ của thi sĩ Bùi Giáng vốn lừng danh và kỳ dị, tôi không
khỏi ngạc nhiên khi thấy bài đầu tiên có nhan đề “Thôn xóm Thừa Thiên”. Vẫn cái
chất trí tuệ siêu vượt cùng với cái điệu cà rỡn của con người có một không hai
đã đi vào huyền thoại thi ca, chứng tỏ rằng loạt thơ này ông sáng tác vào thời
kỳ “Sa mạc phát tiết” và ông đã ra phố Huế ngao du thiên hạ, xin được trích bài
thơ gồm sáu câu tặng cho “Thôn xóm Thừa Thiên”:
 |
| TBùi Giáng (phải) và nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn. (Ảnh tư liệu) |
Vào thôn xóm trọ một mùa
Qua xuân tới hạ ghé chùa chiền hoa
Cô nương mắt ngọc răng ngà
Nhìn bồ tát gọi rằng là: dạ thưa
- Dạ thưa phố huế bây giờ
Vẫn còn núi ngự bên bờ sông hương
Trong bài thơ trên, hai câu cuối (in
trong tạp chí Tư Tưởng) có những địa danh về Huế không viết hoa như “phố huế”,
“núi ngự”, “sông hương”, có thể với thi sĩ Bùi Giáng đó là cách chơi chữ mà ông
vẫn thường sử dụng, vì “núi ngự” và “núi Ngự” hoàn toàn khác nhau nhưng vẫn
không dị biệt, hoặc có thể “sông hương” và “sông Hương” cũng có ý nghĩa như
vậy. Vì theo tôi, “núi ngự” và “sông hương” có nghĩa rộng và sâu hơn “núi Ngự”
và “sông Hương” trong ý nghĩa thi ca.
Vậy xin được in toàn bài thơ trên để
những người quan tâm về Cố đô Huế, quan tâm về Bùi thi sĩ biết được
nguồn gốc để trích dẫn.
Bài thơ thứ hai là “Đêm Vỹ Dạ” được
đề tặng Hàn Mặc Tử đã khiến người đọc ngạc nhiên hơn cũng với thi pháp rất Bùi
Giáng, đảo chữ, nói lái nhưng lại rất trí tuệ theo kiểu triết lý mà không sáo
mòn. Trong bốn câu thơ này được thi sĩ viết hoa địa danh Vỹ Dạ. Cũng cái kiểu
lấy hữu hạn đong đếm vô cùng của triết gia thi sĩ họ Bùi khiến người đọc dao
động từ biên độ hữu hạn đến cõi vô cùng, qua sự đối ngẫu của ngôn ngữ hoặc hình
ảnh không gian gợi tưởng như: “gần” và “xa”, “một vùng” và “song trùng”,…
Đêm Vỹ Dạ
Hai chân bỏ xuống một vùng
Đêm thưa Vỹ Dạ song trùng lời vâng
Dạ thưa Vỹ Dạ về gần
Đã từ xa lắm thiên thần nhớ em
(tặng Hàn Mặc Tử)
Hai bài thơ tiếp theo của thi sĩ Bùi
Giáng về xứ Huế viết về vùng Vỹ Dạ có thể được ra đời qua trường liên tưởng từ
bài “Đêm Vỹ Dạ” tặng Hàn Mặc Tử, là bài “Dạ Vỹ thưa” và “Vỹ Dạ thưa”, chỉ cần thấy
hai nhan đề bài thơ đã biết chính hiệu Bùi Giáng thi nhân.
Dạ Vỹ thưa
Hai chân bỏ xuống một miền
Thưa vâng dạ vỹ em phiền thế sao
Dạ vâng đêm lục hồng đào
Đã từ vĩnh biệt quận vào quê xa
Vỹ Dạ thưa
Hai tay bỏ xuống một vùng
Ngón xanh ngón đỏ ngón ngần ngại gieo
Ngón về vẽ lục tường rêu
Vẽ vu sơ thái trong veo thanh cần
Hai bài thơ trên vẫn bắt đầu bằng
hình ảnh tứ chi, “hai chân bỏ xuống”, “hai tay bỏ xuống”. Rồi với cái điệu đùa
giỡn với các từ: “thưa, vâng, dạ” rất trịnh trọng nhưng với thi nhân là “phiền
thế sao”. Trong câu “Dạ vâng đêm lục hồng đào” cho thấy sự uyên thâm của Bùi
Giáng đã khiến câu thơ nhiều nghĩa, ông cố tình không dùng dấu phẩy để ngắt
nhịp để người đọc tự do ngắt theo tri nhận của từng người. “Dạ” trong câu thơ
trên cũng có thể là “đêm” hoặc “Dạ” cũng có ý nghĩa trong gọi dạ bảo vâng.
Bài thứ năm trong chùm thơ đó là
“Thanh hiên ca” ông để tặng Lão Thần, cũng là một mật mã của Bùi Giáng với
những ẩn nghĩa siêu phàm.
Thanh hiên ca
Lên rừng hỏi lại chóc chim
Vùng sương cố quận ai tìm ở đâu
Lão thần liêu tác vãn câu
Trung lai vần cú mối sầu sau lưng
Chóc chim kỳ mộng luồng từng
Tình vân như mạo chưa từng kể tên
Quyện ngâm sầu khách cuối ghềnh
Đầu truông ưu lự nếp nền tiểu khê
Cỏ khe tồn lý tê mê
Tìm sương dưới nguyệt lối về trong hoa
(Tặng Lão Thần)
Từ ngày tình cờ đọc được chùm thơ
của Bùi Giáng trong Tạp chí Tư Tưởng (Số 1 {18} 15-03-1971)) khi mua sách cũ
đến bây giờ đã trên dưới ba mươi năm. Trong lòng hứa sẽ viết bài để đính chính
hai câu thơ dị bản mà mọi người vẫn thường đọc và trích dẫn khi nhắc đến Bùi
thi sĩ hoặc nhắc đến xứ Huế như một slogan:
Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Tìm mãi không ra tạp chí Tư Tưởng,
cứ áy náy đến tận bây giờ, hữu duyên thì sẽ gặp. Vậy là tình cờ trong tình cờ,
khi tìm lục sách cũ để xác minh nguồn gốc hai câu thơ của thi sĩ Bích Khê lại
gặp thi sĩ Bùi Giáng, vậy là ngồi viết một mạch để hiểu rằng: “Đếm là diệu
tưởng, đo là nghi tâm”, và mong rằng từ nay dị bản sẽ được trả về nguyên bản:
- Dạ thưa phố huế bây giờ
Vẫn còn núi ngự bên bờ sông hương
LÊ
HUỲNH LÂM
|