Hợp Lưu
18-2-15
BỐN MƯƠI NĂM DƯƠNG NGHIỄM MẬU VÀ TỰ TRUYỆN NGUYỄN DU
Ngô Thế Vinh
... Kẻ có chữ bất mãn thường chọn
cách viết sớ tâu lên... Những lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được
nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó
thường dân mà vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ
chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường
làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký.” Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu, 2005.
1975_ Bùi Giáng và Dương Nghiễm
Mậu
Sau 30 tháng 4, 1975 các văn nghệ
sĩ không đi thoát, hoặc chọn ở lại như Dương Nghiễm Mậu, nếu không phải đám
nằm vùng thì ai cũng chờ cái ngày đi vào nhà giam, các trại tù cải tạo.
Giữa những ngày căng thẳng và ảm đạm ấy, có một người vẫn nhởn nhơ, đi tìm
thăm bạn bè văn nghệ cũ. Không ai khác hơn đó là nhà thơ Bùi Giáng Lá Hoa
Cồn. Trung niên thi sĩ lúc nào cũng gầy và già hơn tuổi, râu tóc sơ sác
như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt, không biết anh đã lượm ở đâu
trên đường mà có được bộ quân phục nguỵ với quân hàm Đại tá, Bùi Giáng đem
vận ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao như diễn binh trên hè
phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt
Nam, với một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn toàn rã ngũ.
Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba Chuông, nơi có căn nhà Dương
Nghiễm Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm chật chội ấy đã thấp
thoáng màu cờ đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập cửa rầm rầm đòi vào
thăm cho được cố tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà trước tình huống
ấy cũng vẫn như gái ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm còn là thân quen,
mạng lưới công an chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra khỏi nhà Dương
Nghiễm Mậu, không biết Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai khác, hay
anh lại ra nơi đầu cầu Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng làm cảnh
sát công lộ chỉ đường “trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch sử” và để
rồi sau đó nếu anh không bị đám “cách mạng 30” hay bọn công an đánh tả tơi
sưng mặt mũi thì rồi cuối cùng chắc anh cũng lại tìm về với “mẫu hậu” Kim
Cương, ngồi trước cửa phóng bút làm thơ tặng nàng.
1975_ Toà Soạn Bách Khoa và anh Lê
Ngộ Châu
Tuần lễ trước 30 tháng 4, 1975,
nhân viên Đài Mẹ Việt Nam và những cây viết cộng tác đã được Mỹ lên kế hoạch
di tản khỏi Việt Nam – để tránh bị trả thù. Trước ngày lên tàu ra đảo Phú
Quốc, nhà văn Võ Phiến tới thăm toà soạn Bách Khoa, nơi vùng “xôi đậu” có Võ
Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh ngồi chung với Vũ Hạnh Bút Máu; cũng là
nơi mà Võ Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi thọ của tờ báo. Anh Lê
Ngộ Châu chủ nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải đi, nhưng linh
cảm không có ngày về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ không nói
nổi lời giã từ và rồi đứng dậy bước ra khỏi toà soạn.
Trước một ngày mất Sài Gòn, thì
hầu như toàn bộ nhân viên Đài Mẹ Việt Nam trong đó có gia đình Võ Phiến Giã
Từ, Lê Tất Điều Phá Núi, Viên Linh Hoá Thân, Tuý Hồng Tôi
Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài từ Phú Quốc đã
được đưa lên con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi. Khi bờ biển Phú Quốc
xa mờ trong tầm mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến khóc. Cùng với
những con tàu thuộc Đệ Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông trong cuộc
hải trình nhiều ngày để tới đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất phát của
các đoàn phi cơ B52 trong cuộc chiến tranh Việt Nam với những trận mưa bom
trải thảm/ carpet bombing có sức tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo
Guam chỉ rộng 550 km2 sau tháng Tư 1975,
là chặng dừng chân đầu tiên của hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi
vào đất Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người
Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng
đi thoát và trước sau đặt chân tới các trại tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa đến một tuần lễ sau, ngày 5
tháng 5, 1975 một trong những cây viết lâu năm của Bách Khoa, Phạm Việt Châu Trăm
Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết tại tư gia khi cộng sản hoàn toàn
chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một tác giả có viễn kiến về
lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một
hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang thương diễn ra sau đó.
1975_ Chiến Dịch Đốt Sách
Những ngày sau 30 tháng 4, 1975,
hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới toà báo Bách
Khoa cũng là nơi cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu. Trước khách lạ, đứa con gái
nói giọng hãnh tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới
sáng.” Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng đêm đó có thể
bị tụi nó coi là nguỵ. Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” này chỉ
như phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên. Cũng chính
những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng và diệt
tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng
sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề
đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những “tên
biệt kích văn nghệ” còn được trưng bày trong toà nhà triển lãm Tội ác Mỹ Nguỵ
cùng với vũ khí chiến tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm
Mậu, có cả cuốn Vòng Đai Xanh của người viết.
Cảm khái với câu thơ Nguyễn Du
trong Độc Tiểu Thanh kí: văn chương vô mệnh cũng tro than/ văn chương vô
mệnh luỵ phần dư. Hơn hai ngàn năm sau, chẳng ai quên chuyện “đốt sách
chôn nho/ phần thư, khanh nho” của Tần Thuỷ Hoàng, nhưng không biết chỉ
100 năm tới đây, các thế hệ tương lai có ai còn giữ được“bộ nhớ” Đã Có Một
Thời Như Thế – tên một bài viết của Nhật Tiến, về giai đoạn người Cộng
sản Việt Nam đốt sách giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của Miền Nam?
1975_ Nhà hàng Givral và
Phạm Xuân Ẩn
Trước 1975, La Pagode, Brodard,
Givral là nơi tôi, Phạm Đình Vy [chủ nhiệm Tình Thương] và các bạn y khoa
thỉnh thoảng có dịp lui tới kể cả khi đã ra trường. Givral cũng là nơi thường
gặp gỡ các nhà báo như Phạm Xuân Ẩn, Cao Giao, Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn
Tiến... Phạm Xuân Ẩn, là bạn đồng môn với nhà văn Sơn Nam thời trung học Cần
Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng chân quê mộc mạc. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt
Nam, Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của Reuters, sau đó chuyển
sang tuần báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên kia đường. Cũng
không thể không nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc hội cũ, nơi
tập trung đông đảo nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các hãng thông
tấn và truyền hình Mỹ như ABC, NBC, CBS... Cũng chính Morley Safer trong một
buổi phát hình CBS Evening News ngày 5 tháng 8, 1965 chiếu cảnh lính
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong cuộc hành quân xua dân ra khỏi làng và sau đó
bật quẹt Zippo đốt nhà của họ, những hình ấy đã làm rúng động Toà Nhà Trắng
và cả nước Mỹ như một vết hằn sâu của một cuộc chiến bắt đầu thất nhân tâm.
Bảy năm sau, Nick Ut phóng viên AP với bức hình “Napalm Girl” chụp
trong trận giao tranh Trảng Bàng Tây Ninh ngày 8 tháng 6, 1972, cũng
là thời điểm Quốc Hội Mỹ dứt khoát cắt viện trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội quân báo chí hùng hậu ấy,
trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, có khả năng điều kiện hoá dư luận với “những
tin tức xấu từ một phía”, đủ làm nản lòng dân Mỹ, cùng với đám GI’s đang
cầm súng từ phía bên kia nửa vòng trái đất; truyền thông Mỹ có phần công lao
không nhỏ gián tiếp đưa tới mất Miền Nam Tự Do và cũng là một thất trận đầu
tiên trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ. Và rồi, tất cả bọn họ
cũng đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Và rồi mấy ngày đầu tháng 5, 1975,
Givral lại như điểm hẹn của những người bạn còn kẹt lại, tới đó để biết ai ở
ai đi và nghe ngóng tin tức. Từ những chiếc bàn nhìn qua khung kính trong
suốt ấy, tình cờ gặp lại Phạm Xuân Ẩn. Ẩn cũng đã từng tới thăm toà soạn báo
sinh viên Y khoa Tình Thương trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày nào. Vợ con
Phạm Xuân Ẩn đã được tuần báo Times cho di tản trước đó nhiều hôm, nhưng Ẩn
thì ở lại. Với hơi chút ngạc nhiên và vẻ quan tâm, Ẩn hỏi tôi: “Vinh, tại
sao toa không đi?” Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng phải sau
này, khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ lẽ
được câu hỏi ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng tù
đầy từ một chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo làm
cho tuần báo Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm Xuân
Ẩn là một điệp viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng
chính Phạm Xuân Ẩn tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của
CBS rằng khi Sài Gòn xụp đổ không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo
súng AK lúc đó rằng, tôi là đại tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể
tôi bị tụi nó giết và cả con chó của tôi cũng bị nướng sống.
1975_ Nhà báo Như Phong
Chỉ sau cụ Hoàng Văn Chí Trăm
Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản sau này không ai hơn nhà
báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút hiệu khác của Như Phong Khói
Sóng trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về cộng sản Miền Bắc. Hiểu
cộng sản như vậy, với biết trước những tháng năm tù đầy, vậy mà anh vẫn chọn
ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai Văn Lễ, trước bệnh viện Sùng Chính
trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có một thời làm Khoa trưởng Luật
khoa Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ còn lại mình anh, chị và hai
con thì đã đi trước đó một tuần lễ.
Trưa ngày 30 tháng Tư, ngay sau
khi lệnh đầu hàng được phát đi, có thể thấy từ mấy tầng lầu cao là một cơn
mưa confetti, chỉ một màu trắng của những mảnh vụn giấy tờ tuỳ thân của quân
cán chính cần được xé huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm soát Sài Gòn.
Không kể những giày nón quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi trên đường
phố. Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán đúng những gì sắp
diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ khẩu và rồi
những cuộn giấy bạc sau đó trở thành rẻ rách và rồi sẽ là quần đảo ngục tù / Gulag
Archipelago một tên sách của Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô đi
mua vàng, đôla chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì
chỉ gợi ý mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống như
ngoài Bắc, sau này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Nói vậy thôi
chứ thái độ của cả mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Và rồi vang lên tiếng xích sắt
nghiến trên mặt nhựa, nhìn qua khung cửa là những chiếc tăng T54 treo cờ giải
phóng hối hả chạy về phía trung tâm Sài Gòn.
...
1980_ Cũng đừng tới thăm
Ra tù ba năm sau, trở về một Sài
Gòn đã đổi khác. Nếu còn chút gì thân quen thì là mấy người bạn, không nhiều
còn ở lại. Anh ấy là một trong những cố tri đầu tiên tôi nghĩ tới thăm. Là
giáo sư đại học, anh tốt nghiệp ở Mỹ, trở về Việt Nam từ cuối thập niên 1960,
đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội – theo anh công
bằng xã hội/ social justice phải là giải pháp rốt ráo cho một cuộc chiến
tranh bế tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền Bắc Nam. Tôi cũng đã từng
gặp anh ở Mỹ và cả những năm sau này ở Việt Nam. Sự xụp đổ mau chóng của Miền
Nam với anh là cả một “giấc mộng lỡ”. Tuy không phải chịu những năm tháng tù
đầy, nhưng cuộc sống gia đình anh, cũng như cả Miền Nam rõ ràng là khó khăn.
Từng bước, anh đã bán những bộ tự điển quý lúc đó rất có giá, cho đám học giả
đói sách từ Bắc vào mua; tiếp đến là đồ đạc tranh tượng, cuối cùng là
còn lại là một tủ sách khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem từ Mỹ về thì
nay trở thành vô giá – no value, chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son để
làm bột giấy. Vợ anh là cô giáo cũng phải ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm
sống. Anh thì quá nhậy cảm để thấy nỗi đau và nhục.
Gặp lại anh, vẫn nét mặt trí thức
và đôn hậu như ngày nào, nhưng trong ánh mắt thì lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét
vui mừng nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng nhìn ra cửa : “Biết
toa được ra trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới thăm”. Sự thẳng
thắn rất trực tiếp của anh, thoáng như một gáo nước lạnh, nhưng tôi cảm thông
và vẫn rất thương anh. Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục bảo lãnh,
nghĩ rằng việc có liên hệ với lính nguỵ với tù cải tạo có thể là cản trở cho
cuộc hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh phản ứng
theo hoàn cảnh, không chút phán đoán tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng, và
mai mốt đây nếu có ngày gặp lại anh thì chắc chắn phải là trên một lục địa
khác. Rất sớm trên toàn Miền Nam đã bắt đầu có một mạng lưới tai mắt tổ dân
phố và công an đủ để gây hoài nghi và cả sự sợ hãi.
Ra khỏi nhà anh, có lại được niềm
vui ấm lòng khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề. Nghiêu Đề cho biết mới gặp
Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn
lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại sao thì Sơn cười giọng
khinh mạn: “có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980_ Trần Phong Giao ngoài chợ
Trần Phong Giao dáng vạm vỡ, da
sậm có vẻ công nhân lao động ngoài nắng hơn là người làm việc chữ nghĩa văn
phòng. Nổi tiếng là thư ký toà soạn báo Văn trong 8 năm từ 1963 tới 1971, một
tờ báo có vị trí đặc biệt trong sinh hoạt văn học Miền Nam với phát hiện
những cây bút mới và không ít sau này đã trở thành những tên tuổi. Sau Văn,
anh thử làm nhiều công việc khác cũng trong lãnh vực báo chí, xuất bản, rồi
thủ thư nhưng đã không để lại nhiều dấu ấn như ở Văn. Không lâu sau 30
tháng 4, cả hai anh chị đã phải chạy chợ kiếm sống với chiếc xe ba bánh, đậu
trên đường Lê Thánh Tôn đứng bán từng bó củi, mấy nải chuối hay những bó rau
tươi để nuôi đàn con. Ngày ra tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần Cầu
Kiệu, bên Tân Định, anh gầy sút đi nhiều hai chân đã rất yếu. Gia tài của anh
đáng giá vỏn vẹn còn một tủ sách, quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da,
một sự nghiệp của Trần Phong Giao nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và
phải đem bán cho một Việt kiều từ Mỹ về để có tiền chạy gạo và thuốc men.
Trần Phong Giao mất trong sự túng quẫn và bạo bệnh (2005), anh cũng bước qua
được ngưỡng tuổi cổ lai hy.
1981_ Và những bữa cơm gia đình
Ngôi nhà Nghiễm trong con hẻm với
mặt tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc, áo thun trắng, đôi mắt rất
tinh anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn tuổi của một người sinh năm
1936.
Tuy sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những
quán ăn vỉa hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp sống cơm hàng cháo chợ, nhưng
thường sau một ngày làm việc, thay vì về nhà tôi ghé nhà Nghiễm, được chị
Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm đũa với những bữa ăn đạm bạc nhưng ngon
miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình. Trong tù, tôi và Nghiễm thì đã quen
với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng cũng là bữa tạm no.
Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi “mau ăn, chóng lớn” thì
khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng. Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi
ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có
thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc.
Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu
đó là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo
Trang vợ Nghiễm sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi
chuyện vui từ trường đem về gia đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên vẹn,
nhưng đã có chính sách bần cùng hoá kiểm soát từng bao tử của người dân qua
khẩu phần và sổ lương thực của họ.
1982_ Dương Nghiễm Mậu và một
Thanh Tâm Tuyền khác
Đã gặp Thanh Tâm Tuyền ở những
ngày 30 tháng Tư 1975 nơi một căn nhà nhỏ bên Gia Định. Vợ Tâm lúc đó cũng
vừa sinh đứa con trai út trong cảnh tán loạn bệnh viện Nguyễn Văn Học. “Một
Chủ Nhật Khác” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của “một thời để yêu một
thời để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát hành. Ra tù 1982, gặp
lại Thanh Tâm Tuyền của Bếp Lửa, bằng tuổi Dương Nghiễm Mậu nhưng
trông anh già hơn nhiều, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt rét
kinh niên. Khó có thể tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua
suốt bảy năm tù đầy ngày nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí
ấy ở các trại giam Miền Bắc. Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa
đâm xuyên đùi không giải phẫu thuốc men nhưng anh vẫn sống sót, trong tù
chống rét anh tập hút thuốc lào, không giấy bút anh vẫn làm thơ qua trí nhớ
nhưng là những bài thơ trở về với các thể thơ truyền thống. Thơ ở Đâu Xa
là tập thơ cuối cùng làm trong tù TTT cho xuất bản ở bên Mỹ (1990).
Trong một cuộc phỏng vấn rất hiếm
năm 1993, Thanh Tâm Tuyền đã giải thích sự chuyển biến trong thi ca của
anh:“Làm thơ trong trại cải tạo, cũng là trở về với thi ca truyền thống dân
gian/ Faire de la poésie dans un camp de redressement, c’est aussi
retourner à la poésie de tradition populaire.” [Thanh Tam Tuyen, la poésie
entre la guerre et le camp; par Le Huu Khoa, Publications de l’Université de
Provence]
Trong chỗ rất riêng tư, anh tâm
sự: Thái Thanh bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau 1975. Khi biết Thanh Tâm
Tuyền vừa ra tù đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại những bài thơ phổ nhạc của
anh: Đêm màu hồng, Nửa hồn thương đau, Lệ đá xanh… tuy ấm lòng gặp lại
cố tri nhưng rồi anh đã không còn nguyên vẹn cảm xúc để nghe lại những thanh
âm ngày cũ. Anh đã nói không với những người mới muốn gặp anh. Anh vẫn giữ
thái độ đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự khép kín ấy khiến Mai Thảo đôi khi cũng
phản ứng giận lẫy.
Rồi cũng có một buổi gặp gỡ cuối
1982, từ nhà Nghiễm có Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và tôi cùng đi bộ tới
một quán cóc cũng trên đường Trương Minh Giảng nơi gần đường xe lửa. Thức
uống của Nghiễm bao giờ cũng là một chai bia. Nhắc tới Tô Thuỳ Yên Trường
Sa Hành thì vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng ai nhắc tới nỗi khổ hiện
tại mà câu chuyện lại xoay quanh những người bạn may may mắn ở phương xa.
Những người đi thoát trước 1975, vài tên tuổi được nhắc tới: Thanh Nam Tuý
Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Viên Linh... Nhưng rồi
tên Mai Thảo Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời vẫn như điểm hội tụ của
những tin tức. Anh là nhà văn duy nhất hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của
cộng sản trong suốt hai năm sống lẩn lút ở Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều
mạng che chở cho anh. Trần Dạ Từ Tỏ Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều
nhà văn nhà báo thì đang trong tù, Nhã Ca Giải Khăn Sô Cho Huế ra tù
sớm phải cưu mang một đàn con nhỏ nhưng cũng chính mấy mẹ con Nhã Ca đã bất
chấp hệ luỵ cất dấu bác Mai Thảo trong nhà, một căn phố lầu trên góc đường Tự
Do, đây cũng là chặng ẩn náu cuối cùng của Mai Thảo cho đến khi anh vượt biển
rất sớm thoát được tới đảo Pulau Besar Mã Lai đầu tháng 12, 1977.
Hai năm sau Mai Thảo 1979, phải kể
tới chuyến đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền nhân trong số đó có Nhật
Tiến Người Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối, vợ chồng ký giả Dương
Phục Vũ Thanh Thuỷ... và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên biển rồi
trên đảo Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến đã ghi
lại những thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng khởi
đầu cho phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau lần gặp gỡ nơi nhà Nghiễm,
Thanh Tâm Tuyền chuẩn bị đi Mỹ theo diện HO, cho dù “tâm thái” – chữ của TTT,
vẫn gắn bó với một quê hương mà anh không muốn xa rời, riêng tác giả Ba
Sinh Hương Lửa lại vào tù tổng cộng 14 năm trước khi đi định cư 1995 và
gặp lại Mai Thảo ở Quận Cam.
Trên đường đi, tôi không thể không
có ý nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền
Nam, con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam
cầm huỷ hoại những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ
trong khoảng thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền văn hóa
đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác
thiên thu ấy?
...
2006_ Những Cơn Mưa Sài Gòn
Từ một khách sạn nhỏ gần đường Tự
Do, để tới khu nhà thờ Ba Chuông, đi bộ thì quá xa, taxi thì nạn kẹt xe, tôi
chọn Honda ôm, nhưng đã không tránh khỏi thót tim vì mấy tay lái xe quá liều
mạng: chạy nhanh len lách, ngược dòng xe cộ, cắt cả lên vỉa hè đông người đi
bộ mà anh ta cho là an toàn hơn đi theo luật giao thông. Tuy không có mẩu
giấy địa chỉ trên tay, nhưng có trí nhớ tốt về hình ảnh / photographic
memory, tôi nghĩ vẫn có thể tìm ra nhà Dương Nghiễm Mậu vẫn trong ngõ hẻm
ấy cho dù đã nhiều năm không gặp. Nhà đã được xây lại, cất thêm một từng lầu.
Nghiễm nay là nghệ nhân sơn mài, chị Trang vợ Nghiễm thì vẫn dạy Anh văn ở
Marie Curie, hai con Nghiễm đã trưởng thành tốt nghiệp đại học và đi làm. Cả
gia đình đều làm việc cật lực để tạo được một cơ ngơi như hôm nay.
Khi Nhà Văn là Con Bệnh
Tháng 9, 2006 gặp lại Nghiễm sau
bao năm, khi anh vừa bước vào ngưỡng tuổi cổ lai hy. Thanh Tâm Tuyền vừa mất
trước đó 6 tháng [03/2006]. Như Phong Khói Sóng mất đã 5 năm [12/2001],
Mai Thảo Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền cũng mất trước đó 8 năm
[01/1998], cùng năm với Nghiêu Đề Ngọn Tóc Trăm Năm [11/1998]. Họ là
những nghệ sĩ Việt Nam chọn tự do phải sống lưu vong và vùi thân ở một nơi
không phải quê nhà.
Nghiễm thì vừa gặp nạn ở cái tuổi
70, khi đang đi bộ trên lề anh bị một xe gắn máy chắc cũng lại xe ôm leo lên
tông gẫy xương cổ chân, phải phẫu thuật bó bột gần 2 tuần lễ rồi mà còn sưng
đau, vẫn phải chống nạng. Nghiễm giỏi chịu đựng, không hề than đau chính điều
ấy khiến tôi quan tâm. Nghiễm cần được tái khám để có một ý kiến thứ hai / second
opinion. Tôi nghĩ tới một bạn đồng môn còn ở lại, chuyên khoa chỉnh trực,
giảng dạy ở Y khoa, bạn bè gọi anh là người có bàn tay vàng trong phẫu thuật
chấn thương chỉnh hình. Anh cũng có phòng mạch tư ngoài giờ và tôi đề nghị
đưa Nghiễm tới đó. Nghiễm thì lưỡng lự không muốn nhưng vì tình bạn anh đã
không thể nói không.
Không có địa chỉ, nhưng biết phòng
mạch Bs Võ Thành Phụng trên đường Lê Văn Duyệt, đối diện với trụ sở Tổng Liên
Đoàn Lao Công cũ. Với một cổ chân bị gẫy còn rất xưng đau, thì lên và xuống
taxi lúc này không phải là dễ dàng đối với Nghiễm. Cơn mưa nhiệt đới thì vẫn
cứ tầm tã từ nhà cho tới khi Nghiễm bước chân được vào phía trong phòng mạch.
Gặp chị Võ Thành Phụng, khi biết người bệnh là nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì
tôi hầu như không còn vai trò gì nữa. Chị là độc giả lâu năm và rất quen
thuộc với các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, từ thời báo Văn, Văn Nghệ và cả
Sáng Tạo ngày nào, không kể những cuốn sách của Nghiễm mà chị đã đọc. Phòng
mạch đông khách, do sắp xếp của chị Phụng, Nghiễm là bệnh nhân mới được ưu
tiên khám trước. Anh Phụng cùng tôi đọc những tấm phim chỉ rõ xương cổ chân
gẫy chưa lành nhưng không nhiều di lệch nên không cần thêm phẫu thuật mà là
điều trị bảo tồn. Quá bận bịu với chuyên môn, anh Phụng có lẽ không là độc
giả của Dương Nghiễm Mậu như chị Phụng nhưng Nghiễm đương nhiên trở thành
người bệnh đặc biệt của phòng mạch anh chị hôm đó. Trời vẫn không ngớt mưa,
trong taxi trên đường về, tôi nói đùa với Nghiễm, trong cuộc đời viết văn,
tôi chưa bao giờ có hạnh phúc được gặp được một nữ độc giả tâm đắc và yêu văn
chương đến như vậy. Rất ít bày tỏ, như từ bao giờ Nghiễm chỉ đáp lại bằng một
nụ cười hiền.
2012_ Từ Hải Ngoại
Truyện.
Trước 1975, đọc Kinh Kha với
con chủy thủ trên đất Tần bất trắc trong Nhan Sắc để thấy truyện Dương
Nghiễm Mậu là những tình huống và thái độ lựa chọn, rất biểu tượng và nhiều
ẩn dụ. Nghiễm viết truyện xưa mà nói tới nay. Kinh Kha qua sông Dịch,
chàng lọt vào được cung điện, khi đã kề đoản đao vào cổ Tần Vương, nhưng thay
vì run sợ, thì Tần Vương lại ngửa mặt cười. Và Kinh Kha chợt hiểu ra tất cả:
giết bạo chúa này sẽ lại có một bạo chúa khác… Và hình ảnh Kinh Kha lầm lũi
rời khỏi cung điện vẫn là nỗi đau không cùng, như một dự báo oan khiên cho
ngày hôm nay.
Từ Hải Ngoại Truyện được Dương
Nghiễm Mậu viết khoảng 10 năm sau 1975, [Gia Định, 2005]. Từ Hải là nhân vật
được Dương Nghiễm Mậu khá nâng niu. Phí Ích Bành em Nghiễm, trao cho tôi một
phong bì với 16 trang chữ có ít dòng thủ bút của Nghiễm. Đọc ngay những trang
viết ấy để thấy một Từ Hải Ngoại Truyện nửa anh hùng nửa thảo khấu,
rất khác với nhân vật chính truyện khi chọn con đường bổng lộc giam thân về
chốn triều đình.
Một trích đoạn về bối cảnh xã hội
trong Từ Hải Ngoại Truyện: “một hôm thầy Khổng ngồi xe đi trên đường thì
thấy một bô lão bước tới vái chào, thầy Khổng cho dừng xe lại, trong chốc lát
cả một đám đông trẻ con gầy còm nhếch nhác vây quanh. Ông lão nói: nghe thiên
hạ nói thầy nhiều chữ nên tới xin một ít. Khổng Tử liền mở cái hòm gỗ lấy ra
một cuốn sách trao tận tay cụ già. Cụ già cầm lấy ngắm nghía rồi lật những
trang sách nhìn trên nhìn dưới rồi gấp lại đứa trả thầy Khổng và nói: tôi
không biết dùng cái này để làm gì. Có tiếng cười khả ố vang lên từ một người
trung niên ở trần, đóng khố: sách chẳng có giá trị gì đối với những người
không có cơm ăn và mù chữ. Ông hãy bước chân xuống ruộng, đi cày trồng lúa
rồi lấy thóc mà cho họ thì có ích hơn. Chuyện chỉ kể tới đó không cho biết
hành xử của thầy Khổng ra sao”.
Cũng trong Từ Hải Ngoại Truyện,
Dương Nghiễm Mậu viết về giới quan lại khoa bảng: “Trong Sưu Tặc Ký những
kẻ nổi lên làm giặc thường xuất thân là dân thuyền chài, kẻ cầy ruộng, người
chăn trâu, kẻ đốn củi; tuyệt nhiên không thấy có kẻ nào đậu tiến sĩ, trạng nguyên.
Không tên giặc nào có làm thơ làm phú, hoặc từng làm quan, làm thầy giáo mà
đi làm giặc. Ở những sách khác có viết về kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách
viết sớ tâu lên: khi thì đòi chém tham quan ô lại, khi kêu ca sưu cao thuế
nặng khiền dân đen chết đói, khi kêu oan cho lương dân bị chết chém... Những
lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần
nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại
vị hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng
thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong
Sưu Tặc Ký.”
Dương Nghiễm Mậu viết những dòng
cuối: “Từ những trang sách tới thực tế của chuyến đi làm ta hoài nghi
những ghi chép của người xưa... nhiều sách truyện đã để cho Từ Hải chết đứng
giữa trận tiền. Một anh hùng phải có cái chết anh hùng. Trong ngoại truyện Từ
Hải, cuối cùng Từ Hải đã chết nhưng chết một cách khác, không phải cách chết
đứng giữa trận tiền.”
Rồi từ chuyện xưa mà hóa ra nay,
Dương Nghiễm Mậu viết tiếp: “Nhiều sách tạo ra những anh hùng như mô tả kẻ
tự biến mình thành cây đuốc sống, lấy thân mình bịt họng súng thần công, ôm
bom lao vào quân giặc mà chết. Hầu hết những anh hùng trong sách đó chẳng bao
giờ người ta tìm ra tung tích.”
Tưởng cũng nên nói thêm, căn nhà
của gia đình Nghiễm không xa cây cầu Nguyễn Văn Trổi trên đường Công Lý thời
chống Mỹ, rồi không thể không nhắc tới “cây đuốc sống” Lê Văn Tám đốt kho
xăng Thị Nghè 1945 thời chống Pháp: một nhân vật mà sau này Trần Huy Liệu, bộ
trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào những ngày
cuối đời đã trối trăng lại với đám môn sinh: Lê Văn Tám chỉ là sản phẩm của
tuyên truyền và không có thật.
Ba mươi hai năm sau 1975, qua liên
lạc vận động của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, [cũng là người giới thiệu Phạm Duy
đến với Công ty Phương Nam], nhà xuất bản Phương Nam đã tái bản 4 tập truyện
ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng
Sáo Người Em Út), và truyện dài Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên.
Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một đao phủ đã không nương tay
viết bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội Công ty Phương Nam.
Vũ Hạnh viết: “Sách của Dương
Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự
chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống
trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy."
Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn
đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem
những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề
đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả
Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình
đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào." [Sài Gòn Giải Phóng,
22/4/2007].
Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây,
trước 1975 đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ Miền Nam không thiếu lòng nhân ái đã
hơn một lần cùng vận động ký tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ Hạnh cũng được Văn
Bút Việt Nam che chở, và khi bị kết án tù thì chính linh mục Thanh Lãng, Chủ
tịch Văn Bút đứng ra bảo lãnh, để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai ra ngoài
họat động.
Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo
miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc,
Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các,
Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường... hay vừa ra khỏi nhà tù thì
chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải
gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá
lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì phải đứng
sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công nhân
sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở
thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Nghiễm vốn tâm lành, nếu có ai
nhắc đến chuyện Vũ Hạnh thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao dung, anh tin trên
đời người tốt nhiều hơn kẻ xấu, kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ cũng tự thấy sai.
Nghiễm có lạc quan quá không vì đã hơn 40 năm chịu khổ ải do họ gây ra, nay
đã tới tuổi gần đất xa trời mà sao họ vẫn“chưa tự thấy sai” chưa hề
biết sám hối. Một người bạn rất quen biết Vũ Hạnh nhận định: sự hung hãn ấy
chỉ như tấm bình phong – một thứ raison d’être, biện minh cho sự hiện
hữu của Vũ Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối
xử như một nhà văn [Lý Đợi, talawas 10.5.2007] “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên
thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói
hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia.
Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy xuyển: “tác giả
là gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh
xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng
ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế
hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê
phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi
Chát [Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013].
Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh
cũng như những người cộng sản tha hoá bước vào Thế Kỷ 21 là sự “nguỵ tín/
mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho
điều mà họ không còn chút tin tưởng. Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời
chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái đi du học rồi trưởng thành sống ở Mỹ;
Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.
Trở lại với Nghiễm, nhiều người
vẫn nghĩ rằng, sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày, đi làm sơn mài kiếm sống,
Dương Nghiễm Mậu không còn viết gì. Điều này có lẽ không đúng. Nghiễm không
có sách mới xuất bản trong nước suốt 40 năm từ sau 1975. Nhưng Dương Nghiễm
Mậu như tôi biết, anh vẫn viết, trong đó có “Tự Truyện Nguyễn Du” như
một tác phẩm lớn mà tôi tin là anh vẫn bền bỉ hoàn tất từng trang sách.
2015_ Mưa California Mưa Sài Gòn
California vẫn khô hạn, nhưng thản
hoặc cũng có những cơn mưa đủ tầm tã để gợi nhớ những cơn mưa Sài Gòn, nhớ ngày
tới thăm bạn cũng vào một buổi chiều mưa như vậy, với những khúc đường xá thì
ngập lụt.
Hạnh phúc ở xa là có được một
người bạn như Nghiễm, cho dù ở đâu và bao giờ có biến động ra sao thì vẫn cứ
là một Dương Nghiễm Mậu với Nhan Sắc ấy, nhất quán và xác tín như thuở
nào: có cái dũng để nói không.
Tôi nghĩ tới Nghiễm, anh đã sống
trong dòng chính sinh hoạt Văn Học Miền Nam, từ rất sớm cho tới 1975, và 40
năm sau anh vẫn thăng trầm với vận nước ngay trên quê nhà. Anh là một nhân
chứng khả tín cho suốt thời kỳ ấy và điều anh viết ra được mọi người tin.
Lời Cuối Cho Bài Viết
Dự định khởi đầu là một bài viết
về cố tri Dương Nghiễm Mậu, với cuộc hành trình 40 năm của anh. Bài viết chỉ
với hơn bảy ngàn chữ, nhưng rồi không tránh được, như một flashback, có
thêm những khúc phim trắng đen ngắn của hồi tưởng rất chung và cả rất riêng
tư, khá rời rạc đổ tràn theo những trang viết.
Vậy mà đã 40 năm qua đi
1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp
mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm
một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát
bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể tới
cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn Học
Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ
đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
Trong quá trình phục hồi di sản
Văn Học Miền Nam, không thể không nhắc tới một tên tuổi: Trần Hoài Thư – Thư
Quán Bản Thảo, anh có hùng tâm và đơn độc trong suốt nhiều năm nỗ lực khôi
phục lại những văn bản của một thời kỳ văn học bị truy lùng và huỷ diệt.
Không phải là quá sớm để ghi lại
một giai đoạn lịch sử trung thực, chứ không phải là “phiên bản” nguỵ tạo mà
người cộng sản đã và đang làm. Trước khi lịch sử bước qua một trang khác.
NGÔ THẾ VINH
Sài Gòn 1975 – California 2015
NGUỒN: Viet-studies
|
Chân dung văn nghệ sĩ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)