Rượu đế và những khả năng khác
bởi Trần Minh Khôi vào ngày 3 tháng
1 2012 lúc 6:47 ·
(Từ New Year đến Tết sẽ không
nghĩ/viết/nói/bàn chuyện bao đồng. Chỉ bàn chuyện ăn và uống thôi. Hehe...)(I) Việt Nam có hai thứ mà tôi ít biết đến nhất. Phụ nữ và rượu. Trước một người phụ nữ, bất cứ ở xứ nào, ở đâu, tình cờ gặp ở sân bay, ở các conferences, trade shows, trong các quán bar, trên sân golf, ở foolball stadiums, ở những nơi làm việc,… tôi thường không gặp khó khăn gì trong việc bắt đầu một câu chuyện với họ. Họ luôn cho tôi cảm giác thân thuộc nào đó của những mối bận tâm chung trong cái khoảng khắc gặp gỡ tình cờ để câu nói mở đầu bâng quơ của tôi không trở nên miễn cưỡng lắm. Tôi không có cảm giác thân thuộc đó ở những người phụ nữ Việt Nam (ở Việt Nam và cả ở nước ngoài). Họ luôn luôn là những bí ẩn. Tôi hoàn toàn không đoán được họ đang nghĩ gì, họ bận tâm đến điều gì. Thường thì tôi chỉ im lặng, có khi hàng giờ đồng hồ như có lần ngồi trên máy bay từ Narita về Tân Sơn Nhất chẳng hạn, thay vì nói điều gì đó mà tôi biết chắc là ngớ ngẩn. Tôi là người nhiều chuyện. Tôi có thể tám bất cứ chuyện gì với bất cứ ai. Cái khó là thường tôi không biết mở đầu như thế nào với họ. Nhưng thôi, chuyện đó để đó mai mốt nói. Cái note này là để nói về một thứ khác của Việt Nam mà tôi cũng biết rất ít. Rượu. Kinh nghiệm của tôi với rượu Việt Nam cũng chỉ loanh quanh thứ rượu mì (sắn) mà ngày xưa người ta thường nấu (lậu) ở các vùng quê Bình Thuận. Hồi đó lâu lâu trong xóm lại nghe chuyện có người chết vì uống quá nhiều một thứ rượu có tẩm thuốc rầy (người ta tẩm thuốc rầy, một loại thuốc trừ sâu, để làm rượu không vẩn đục). Rượu gạo và rượu nếp thì tết nhất mới có uống. Say cũng nhiều, nhưng nhớ nhất là lần say rượu ở cái quán lá của chị Ngọc Lành. Hôm đó đám bạn uống rượu với nước mưa. Vào Sài Gòn tôi có nghe nói đến rượu Cải Lý nấu từ mía nhưng tôi chưa bao giờ được thử qua. Những lần về sau này tôi vẫn chưa được uống lại rượu Việt Nam. (Nghi ngờ đám bạn bè của mình ở Việt Nam không biết uống rượu đế nữa.) Thỉnh thoảng tôi được nghe ai đó nói về một loại rượu ở đâu đó rất ngon. Anthony Bourdain, trong chương trình đầu tiên của anh về Việt Nam, cũng có thử qua một loại “rice wine” ở một quán trên Tây Nguyên mà anh khen ngon. O.H.Đ có lần kể tôi nghe về một lò rượu của một bà già ở Nam Định, nấu từ một loại gạo địa phương, rất đặc sắc. Hôm qua ở nhà sư huynh LVH, sư huynh LNĐ cũng có nhắc đến một thứ rượu gạo ngâm bồ đào chôn dưới đất 100 ngày, ngon lắm. Những người khen rượu ngon này cũng không diễn tả được cái ngon của chúng. Mỗi lần nghe như vậy tôi cố gắng hình dung nhưng thú thật tôi không hình dung ra được chúng ngon như thế nào. Ký ức rượu mì của hai mươi năm trước không giúp gì được cho tôi. Khi nghe ai đó nói về cái ngon của một chai scotch single malt hay một chai bourbon, tôi có thể hình dung ngay chúng ngon như thế nào. Tôi có đủ ngôn ngữ để diễn tả hương vị, đủ sự thân thuộc để liên tưởng đến cá tính của chúng. Những cái ngon (hay không ngon) này có đủ các yếu tố đo lường khách quan để những nhận xét về chúng có thể chia sẻ được. Cái ngon của rượu Việt Nam không như thế. Đó là cái ngon bí ẩn. Tôi chưa được gặp một người Việt Nam nào có đủ ngôn ngữ, hoặc kinh nghiệm, hoặc đam mê, để diễn ta cái ngon của rượu Việt Nam một cách khả tín. Thỉnh thoảng cái ý tưởng này thoáng qua đầu tôi: có lẽ tiếng Việt chưa đủ trưởng thành để diễn ta rượu Việt Nam ngon thế nào. Chịu thôi. Tôi không hiểu rượu Việt Nam, như vẫn không hiểu phụ nữ Việt Nam vậy. Với cả hai, sự bí ẩn còn nguyên vẹn. Trong tất cả những thứ tôi đã đọc, có lẽ Kim Dung là người đã mô tả về rượu sành điệu nhất. Người tình Nhậm Doanh Doanh biết Lệnh Hồ Xung sắp chết. Nàng sắp đặt cho các kỳ nhân Ma giáo tiếp rượu cho anh chàng, đủ các loại rượu danh trấn giang hồ, trên suốt chặng đường về Lạc Dương. Tôi không tìm thấy trong thế giới chữ nghĩa phương tây có đoạn văn nào giống đoạn văn này trong Tiếu Ngạo Giang Hồ. Có lẽ tình yêu với rượu trong tôi nảy nở từ đó. Rất lâu sau này, tôi nhận ra rằng, như cái hay của khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ vậy, cái ngon của các loại rượu của Kim Dung là cái ngon mơ tưởng. Có lẽ vì tôi đọc Kim Dung bằng tiếng Việt. Hình như luôn tồn tại một khoảng cách giữa ngôn ngữ và nhận thức trong tiếng Việt (vâng, là giữa ngôn ngữ và nhận thức. Giữa ngôn ngữ và thực tại là cái hố thẳm không vượt qua được rồi). Chúng ta đối diện với sự ngạc nhiên, nhưng thường là chưng hửng, giữa cái được mô tả và ngôn ngữ dùng để mô tả chúng. Nghe Jason Pyle mô tả cái ngon của một chai Jack Daniel’s Single Barrel bạn khó mà có thể liên tưởng đến cái gì khác cái mà anh đang nói đến, ngay cả khi bạn không đồng ý. Nghe một người khen một bình đá bạc ngon bạn không có lựa chọn nào khác hơn là đuổi theo mơ mộng của mình và đợi đến một ngày đẹp trời nào đó được uống một cốc đá bạc chắc chắn hoàn toàn khác. Cái khoảng cách này nuôi dưỡng huyền thoại. Nó na ná như thứ huyền thoại của khúc nhạc Tiếu Ngạo Giang Hồ. Biết có đâu đó nhưng không bao giờ tìm thấy. Chúng ta nuôi dưỡng huyền thoại cho nhau. Cho đến khi ngôn ngữ đủ trưởng thành để đem huyền thoại ra khỏi tâm thức. Hoặc cho đến khi rượu đủ ngon để trở về với cái-ngon-có-thể-mô-tả-được của đời thường. Hoặc cả hai. (II) Theo định nghĩa, rượu gạo Việt Nam là whiskey. Tất cả những thứ rượu làm từ lương thực lên men (gạo, bắp, barley,…) đều có thể được gọi là whiskey. Con người sinh ra đã là người nhưng để thành người thì phải đi qua một giai đoạn lớn lên và trưởng thành. Whiskey cũng thế. Để trở thành whiskey, các thứ rượu này, sau giai đoạn chưng cất, phải được nuôi dưỡng để lớn (aging) và trưởng thành (maturing) trong các thùng oak trong một thời gian nhất định. Nếu ở Scotland thì thời gian đó ít nhất là ba năm. Rượu gạo Việt Nam thường được dùng để uống ngay, hoặc nếu có “ngâm” thì chúng được ngâm với các loại “thuốc” như rễ cây, mật gấu, hay cao hổ. Tôi không biết có loại rượu gạo nào được ngâm với thứ gì trong một khoảng thời gian dài năm, mười, hoặc hai mươi năm để chúng lớn và trưởng thành như các loại whiskey ở Mỹ, Canada, Ireland, Scotland, hay ở Nhật. Khẩu vị có thể khác nhưng sự dạn dày từng trải của một ly rượu tu luyện hai mươi năm trong bóng tối của thùng oak có thể khuất phục bất cứ một ly rượu mới ra lò nào, dù nó được ngâm với thứ cao hổ cốt hiếm đến đâu. Single malt (Scotland) hay bourbon (Mỹ) đều là whiskey nhưng chúng được sản xuất bởi những quy trình nghiêm ngặt. Tennessee whiskey thì không phải chịu sự chi phối của những quy trình như thế. Miễn sao chúng được sản xuất ở tiểu bang Tennessee thì chúng được gọi là Tennessee whiskey. Quy trình nào đi nữa thì vẫn có dùng để sản xuất Vietnamese whiskey. Tại sao không? Hương vị cuối cùng của một ly whiskey phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là nguồn nước ở nơi chưng cất, nhưng quan trọng nhất vẫn là thời kỳ lớn và trưởng thành trong thùng oak. Mùa hè, thùng oak nở ra, rượu thấm vào các thớ gỗ của nó. Mùa đông các thớ gỗ co lại, trả rượu về lại trong thùng. Tiến trình này lập đi lập lại vài năm hoặc vài chục năm. Rượu chứa trong thùng được tôi luyện và dạn dày theo năm tháng. Hương vị và màu sắc cũng đến từ quá trình tôi luyện này. Single malt và các loại whiskey ở Ireland không dùng thùng oak riêng của chúng mà dùng các thùng oak đã dùng qua, mua lại từ Mỹ và Tây Ban Nha. Bourbon và các loại whiskey ở Mỹ thì chỉ dùng những thùng oak mới, được đóng từ gỗ white oak vừa được khai thác, đi qua một công đoạn đốt cháy (char) đặc thù của từng lò rượu. Các thùng oak này được dùng một lần rồi bán lại cho các lò rượu whiskey ở Scotland và Ireland. Đến đây chắc bạn cũng đã đoán ra được quy trình tôi luyện một ly rượu Vietnamese whiskey mà tôi có ý đề nghị ở trên. Cái chúng ta cần, có lẽ, không phải là một quy trình kỹ thuật mà chính là sự kiên nhẫn và một tâm thức. Một ly rượu mới ra lò có lẽ có cái mãnh liệt của nó, tôi hình dung thế. Nhưng một ly rượu whiskey cũng có cái mãnh liệt đó và có hơn nữa. Nó có cái thuần thục và thách đố, nó có sự chính chắn và ngọt ngào, có sự quyến rũ và từng trải mà chỉ năm tháng mới có thể đem lại. Câu hỏi cuối cùng có lẽ vẫn là: tại sao Vietnamese whiskey? Câu trả lời của tôi, tại sao không? Cái ý tưởng được ngồi nhìn một ly rượu thon thả, óng ánh cái sắc vàng của buổi chiều cao nguyên ở Liên Khương, nấu từ loại gạo của một cánh đồng ngập nước ở miền Tây, chưng cất bởi dòng nước từ một con suối chảy qua những núi đá vôi nào đó ở đất Bắc, tu luyện hai mươi năm ở Sa Pa (nơi có nhiệt độ mùa đông đủ lạnh) trong một thùng oak bourbon từ Tennessee,… với tôi là một ý tưởng quyến rũ không kém bất cứ ý tưởng nào. Rượu như rượu whiskey, như tình bạn vậy, là những gì còn lại khi năm tháng đi qua. (III)(Viết đoạn “foreword” này cho cái note khác giờ viết lại thì mệt quá, ném đại nó vào đây luôn. Nếu không có hứng thú thì cứ scroll down tới đoạn phía dưới:)A foreword: I wrote this note in the comfort of my living room, using the information readily available from googling around the Net. Please don’t take it too seriously…hehe :) I’ve never got a change to taste these spirits, never been in places mentioned here. I just dream it out loud. By the virtue of being American, I am a professional dreamer; I dream things to executable details. I make wine, mostly from old vine zinfandel grapes from Napa Valley sold in the famous Italian store down in the Strip every year late in the Fall. My Godparents are second-generation Italians. Their parents, migrated to the States from northern Italy in the early years of the last century, made wine the old fashion way. By the time this art was passed on to me, things were kindda different; we don’t clean our feet and step on the grapes in a big oak barrel anymore. I’ve been making wine for about six, seven years now. My wine, from my own positively-biased, and my friends’ rather flattering, judgment, is ok. Drinkable, and definitely “say”-able. Few years back, I took time to sit down and map out a detail plan to build a winery in Đà Lạt. I mean a detail plan, everything from the cost of shipping grapes from Napa to bottling. It’s been, and still is, a dream of my life to open a “quán rượu”, which sells my own wine and liquors, in that place. (Why Đà Lạt? I have no freakin’ clue. It’s just a dream. Who cares:) I’ve even carved out a name for it, Quán Phong. (It will also be written in Chinese with the wood radical, 楓館,so people know Phong as “maple”, not “wind”.) All along, I’ve been keeping my eyes on finding a way to make whiskey, a Vietnamese version of whiskey of course. The process of making whiskey is simple and well-known. Any old moonshiner would tell you that (one happened to be my neighbor for a long time before he passed away at age 86 few year back). The problems are not the “how”. Problems are in the mindset, in the drinking culture of a populace: it takes patience, dedication, passion, love, and many many years to make a bottle of whiskey. But, as an old adage goes, there is a will there is a way. If we want it badly enough, sooner or later we will figure out a way to have it done. And that brings me to this note: how to make Vietnamese whiskey. Remember the tune a homeless was singing at the end of the movie “Pretty Woman”? Dream, dream, keep dreaming, one day it will come true. One day, if not me, then someone will make a bottle of Vietnamese whiskey. 100 years from now, someone will make a bottle of Vietnamese whiskey that rivals the best of Scotch single malt or Kentucky bourbon. Someone else then wonders how whiskey ends up in Vietnam. They dig up Facebook and find this note. Now let us dream on… Người Hmong ở vùng Hà Giang, Lào Cai có nấu một loại rượu bắp (ngô) cổ truyền được nhiều người biết đến. Quản Bạ, Hà Giang có rượu Thanh Vân. Bắc Hà, Lào Cai có rượu Bản Phố, và nhiều thương hiệu khác như Mã Pí Lùng, Lũng Phìn, Mèo Vạc. Rượu được chưng cất từ các loại bắp trồng trên các sườn núi đá, dùng một loại men thực vật cổ truyền, chưng cất bằng nước từ các con suốt chảy qua các ngọn núi đá trên cao nguyên Đồng Văn, Bắc Hà. Rượu Bản Phố dùng loại men làm từ bột của cây “pa” và nước từ nguồn suối Hang Dế. Cái ngon của các loại rượu bắp này được mô tả là thơm, nồng, cảm giác êm dịu sau khi uống, say không mệt. Như đã nói, tôi chưa bao giờ được thử qua loại rượu này. Nhưng từ những gì lượm lặt được trên mạng, về thổ dưỡng, nguồn nước, khí hậu, so sánh với các loại spirits, cũng chưng từ nguyên liệu chính là bắp, dùng để làm Kentucky bourbon hay Tennessee whiskey, tôi tin rằng rượu bắp Hà Giang là một thứ rượu có thể dùng để luyện ra một loại whiskey. Các loại rượu mới ra lò dùng để luyện Kentucky bourbon hay Tennessee whiskey là không thể uống được vì mùi vị rất ghắt. Trong khi đó thì rượu Hà Giang đã “thơm, nồng, cảm giác êm dịu”. Không cần phải tưởng tượng nhiều, nếu đi qua cùng một công đoạn tu luyện thì whiskey Hà Giang sẽ ngon hơn. Tôi tin thế. Tại sao Hà Giang? Có thể có những nơi khác nhưng ngay lúc này đây đó là một trong vài nơi hiếm hoi mà tôi biết trên đất nước Việt Nam có khí hậu và điều kiện thiên nhiên thuận lợi để tôi luyện whiskey. Rượu bắp Hà Giang khi ra lò, ở các hợp tác xã hoặc ở các lò tư nhân ở tư gia, thường ở khoảng 25-35 độ (%, 50-70 proof). Do đó, trước khi đưa vào thùng oak, rượu phải được chưng lại một lần nữa để tăng độ cồn lên khoảng trên dưới 55-65 độ (110-130 proof). Có hai loại thùng oak. Loại mới đóng và loại đã dùng qua một lần. Kentucky bourbon và Tennessee whiskey dùng loại mới. Scotch single malt và Irish whiskey dùng loại đã dùng qua một lần; họ mua lại các thùng oak đã dùng cho Kentucky bourbon hay Tennessee whiskey. Oak mới cho màu sắc của rượu đậm đỏ, mùi vị nồng, một vài loại rượu còn có mùi gỗ cháy. Các lò rượu Scotch single malt dùng oak cũ vì không muốn các yếu tố này làm át đi sự tinh tế của rượu. Không thể biết được loại thùng oak nào thích hợp với rượu bắp Hà Giang. Có lẽ nên dùng cả hai. Sau năm mười năm mới biết được loại nào tốt hơn. (Bỏ một đoạn. Chỉ là những con số về giá thùng oak, dụng cụ chưng cất /pot-still, giá rượu bắp ở địa phương, chi phí lao động, giá thành sản phẩm. Chỉ là chuyện tiền nong, không quan trọng…hehe:) Lần tới về Việt Nam, tôi sẽ bám theo sư huynh Lê Đức Dục lên Hà Giang. Sẽ đem theo hai thùng oak, một mới, một cũ. Mua rượu Bản Phố hoặc Thanh Vân, chưng cất lại cho đủ độ, cho vào thùng. Rồi nhờ sư huynh Lê Đức Dục tìm một nơi để gởi nhờ. Năm năm sau trở lại lấy một thùng. Mười năm sau trở lại lấy thùng còn lại. Một nơi khác cũng có thể luyện whiskey được là ở làng Kim Long, Quảng Trị. Ở đây có loại rượu Kim Long, nấu từ gạo, nổi tiếng. Nguồn nước chảy trong cát, do đó lượng sắt có lẽ thấp, phù hợp cho whiskey. Khí hậu cũng đủ khắc nghiệt để luyện ra một thứ whiskey có cả tính. Chỉ lo mỗi một chuyện, vùng này có lũ lụt. Luyện whiskey phải mất năm mười năm, trước sau cũng sẽ gặp lụt. Khi đó thì ai mà nghĩ đến chuyện cõng mấy thùng whiskey của mình đi chạy lụt. Trong nam cũng có những loại rượu ngon như Bầu Đá, Gò Đen nhưng tôi nghi ngờ nguồn nước và khí hậu ở những nơi này thích hợp để luyện whiskey. Tôi muốn kết thúc cái series “Rượu đế…” này với lời mời gọi bạn bè của tôi tham dự một cuộc hành trình đi tìm rượu. Phải tạo ra nước để có nước mà yêu..hehehe. Theo đuổi cái mà lúc này đây chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của chúng ta có cái quyến rũ của một cuộc hẹn hò với tương lai. Năm năm sau trở lại Đồng Văn, cái thùng rượu mơ mộng ngày trước có thể trở thành một thùng giấm. Thì đã sao. Chúng ta cũng đã sống trọn vẹn trong sự hứa hẹn của một giấc mơ. Cũng đủ say rồi. ĐI KÉO GHẾ Ở HUẾ HƠN 40 NĂM VỀ TRƯỚC ????
Nếu
bạn là người Bắc hay Nam chưa từng ở Huế, bạn sẽ không hiểu được ba chữ
“đi kéo ghế” là nghĩa như thế nào hay sẽ tự hỏi thầm: “Cái dzì dzậy
cà?” hay “Cái gì thế nhỉ?”
Cho dù bạn là người Huế 100% nhưng ở vào khoảng tuổi 40 trở lại, e rằng bạn cũng sẽ phân vân. “Đi kéo ghế là đi mô rứa hè?”.
Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì nhóm chữ này hình như chỉ tồn tại một thời
gian ngắn, sau đó dần dần biến mất và không ai dùng đến nữa. Ngôn ngữ
cũng biến đổi theo thời gian cùng điều kiện sống của xã hội. Đi kéo ghế
là đi ăn tiệm, đi ăn nhà hàng, mà người Huế vốn bản tính kín đáo và tế
nhị không muốn nói đến chuyện ăn uống thông tục, nên dùng một số chữ
khác để chỉ cùng một sự việc. Bốn năm mươi năm trước đây, người Huế ít
khi đi ăn tiệm hoặc hàng quán vì nhiều lý do. Trước hết là vì bản chất
và nếp sống khép kín trong gia đình, không thích phô trương hoặc la cà
ngoài hàng quán trong tiệm ăn mà họ thường chê là “cơm đường cháo chợ”.
Thứ đến là vì lý do kinh tế cá nhân eo hẹp trong hoàn cảnh xã hội khó
khăn thời chiến. Vừa mới hồi cư sau khi cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng
nổ (1945-1946), mọi người đều gặp khó khăn, đời sống bấp bênh, công ăn
việc làm chưa ổn định.Thành ra đối với đa phần dân Huế, đi ăn hàng quán
là xa xỉ, là phí phạm hoặc là vì họ không có nhu cầu đó. Hơn nữa trong
mỗi gia đình người Huế, đều có một người vợ, người mẹ truyền thống, đầy
đủ tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Bà nội tướng Huế dù giàu hay nghèo
cũng đảm đương tròn nhiệm vụ một ngươi dâu thảo, một người vợ hiền. Họ
luôn luôn lo lắng và sẵn sàng săn sóc gia đình mọi mặt từ cây kim sợi
chỉ, manh quần tấm áo cho đến bữa cơm gia đình ngon lành và ấm cúng hàng
ngày. Thế nên có thể nói mà không sợ “trật” lắm là, người đàn ông Huế
thích ăn cơm nhà hơn là cơm tiệm. Và những trường hợp đặc biệt của những
người phải đi ăn cơm tháng hay cơm tiệm dài dài, thường là những người
thiếu may mắn, đang ôm ấp một nỗi cô đơn thầm kín hoặc đang chịu đựng
một thảm kịch gia đình nào đó.Thời kỳ sau 1945 và trước 1960, người Huế
chỉ đi ăn tiệm hay thường gọi là đi kéo ghế khi có những dịp đặc biệt:
Bạn bè, khách quý ở xa về thăm hay trong gia đình có những điều vui mừng
cần tưởng thưởng. Ví dụ như con thi đậu Ri-me (Primaire) tiểu học, thi
đậu Càng Cua (Concours) vô học trường nhà nước, thi đậu Dit Lôm
(Diplôme) hay Tú Tài (Bạc l-2), v.v... Hoặc là dịp tiễn con đi Sài Gòn
học Đại Học, đi du học ở Pháp, ở Anh v.v...Nói tóm lại là chỉ những khi
có dịp mừng vui đặc biệt như vậy thì cả nhà, toàn bộ đại gia đình, bao
gồm ông bà cha mẹ, con cái, chọn lựa một tiệm ăn lớn trong thành phố hợp
với khẩu vị, hợp với túi tiền là kéo nhau tới đó kéo ghế kêu rột, rột,
rột rất chi là rộn ràng... Bạn thấy chữ “kéo ghế” cũng tượng thanh và
tượng hình lắm đó chứ!!! Thời kỳ hậu tản cư, những năm 1947, 48, 49, 50,
v.v... ở Huế tiệm ăn có thể đếm trên đầu ngón tay chứ đâu có trăm hoa
đua nở như ngày nay, những hơn 50 năm sau. Khách muốn ăn cơm Tây, xin
mời đến “Restaurant Au Bon Goût” tên Việt Nam là Như Ý ở đầu cầu Trường
Tiền, bên cạnh Ty Thông Tin Huế với ông chủ tiệm có bộ râu cá chốt rất
chi là ngộ nghĩnh. Khách có thể ăn điểm tâm đơn sơ với Pâté chaud, thịt
nguội xúc xích (saucisson), trứng chiên (oeufs sur plat) hay chả trứng
(omelette) hoặc bánh mì nướng phết bơ đường (beurre Bretel) vàng óng
thơm phức và uống cà phê Pháp pha rượu Rhum Saint James đậm đà, nồng
nàn. Trưa chiều, dùng cơm phần (repas) theo thực đơn thay đổi hàng ngày.
Hay muốn sang hơn thì đặt trước những món như Heo Sữa (Cochon de Lait),
Thỏ nấu rượu chát (Civet Lapin) hoặc tôm hùm xốt trứng gà (Langoustine
sauce mayonnaise), v.v... Quý ông uống rượu mạnh thì có Martell,
Courvoisier, Bourbon với Soda Perrier. Quý bà thì Champagne Monopole,
rượu chát đỏ Beaujolais, Mâcon, rượu chát trắng Sauterne, rượu khai vị,
rượu mùi Dubonnet, Cointreau, Saint Raphael, Anis, Pernod hoặc uống bia
Kronenbourg.
Bên
kia cầu Trường Tiền, phía Hữu Ngạn Sông Hương, trong khu Morin có Khách
Sạn Huế (Hôtel de Huế), đủ các món ăn chơi kể cả nhảy đầm (dancing)
dành cho người Pháp và các quan chức liên hệ, người Việt Nam ít ai bén
mảng qua đó. Đi ngược đường Lê Lợi về phía cầu Ga có nhà Thủy Tạ (Cercle
Sportif de Huế), có sân đánh quần vợt (tennis), có hồ bơi, có thuyền
chèo (périssoires), dĩ nhiên là có tiệm ăn và quán rượu, nhưng cũng chỉ
dành riêng cho người Pháp, trước năm 1954, người Việt Nam ít ai có dịp
bước vào chốn nầy. Người dân Huế những năm 1940 và 1950 hầu như chỉ sinh
hoạt thực sự bên khu Tả Ngạn Sông Hương và trong Thành Nội. Khách muốn
ăn cơm Tàu có thể chọn lựa một trong hai tiệm. Trước hết là Tiệm Khê Ký ở
chân cầu Gia Hội, gần bùng binh ngã ba đường Bạch Đằng - Chi Lăng với
cầu Gia Hội. Tiệm thứ hai là Tiệm ăn Quốc Tế ở đường Ngã Giữa (sau này
đổi tên là đường Gia Long rồi Phan Bội Châu). Cả hai tiệm đều nổi tiếng
một thời với các món ăn Tàu do các đầu bếp Chợ Lớn và Hồng Kông đảm
trách. Tuy các món ăn không được đa dạng và phong phú như ngày nay nhưng
vào thời chiến tranh đó và lúc thế giới còn quá bao la chứ không nhỏ
hẹp như bây giờ (nhờ khoa học kỹ thuật quá tiến bộ), mà chúng ta cũng có
thể ăn gà Hải Nam, những con ốc (bào ngư) hay vi cá đuối hay vi cá mập ở
Thượng Hải, Phúc Kiến hay có thể thưởng thức những con đỉa biển gọi là
Hải Sâm ở Hải Sâm Uy (?). Có thể nói khách muốn ăn cơm Tàu giản dị cũng
có, muốn sơn hào hải vị chi cũng có cả. Khách có thể uống bất cứ thứ
rượu Tây nào mà khách muốn. Tuy tiệm không có Bồ Đào Mỹ Tửu như người
thời xưa Mao Đài Tửu thời đương đại, xin khách tạm dùng Mai Quế Lộ hay
Ngũ Gia Bì là hồn cũng đủ lâng lâng bay bổng lên gặp Hằng Nga trên Cung
Quế. Tiếc thay không hiểu vì lý do gì mà hai tiệm ăn Tàu nổi tiếng một
thời này lần lượt đóng cửa dẹp tiệm, nhường sân chơi cho một tiệm ăn
Việt có đủ cả 3 thực đơn Việt -Tây-Tàu ở cửa Thượng Tứ. Đó là tiệm Lạc
Thành, chủ nhân là người Huế. Tiệm Lạc Thành nổi bật hẳn lên và tồn tại
hơn 20 năm, từ năm 1947 cho đến ngày miền Nam sụp đổ thì tiệm ăn Lạc
Thành cũng sập tiệm theo luôn! Con đường Thượng Tứ thời Tây gọi là Rue
de La Citadelle thực sự dài khoảng 300 thước, bắt đầu từ Ngã Ba Thương
Bạc cho đến cửa Thượng Tứ là hết. Đoạn đường này qua nhiều thời kỳ là
con đường một chiều, lại xa chợ Đông Ba nên người Huế thường nói là
“trái đường”, rất khó bán buôn. Nhưng Tiệm ăn Lạc Thành lại đông khách
lạ lùng. Một tiệm ăn ở Huế mà tồn tại gần 30 năm là một điều rất hiếm
có. Tiệm ăn thường ngày có sẵn 3 thực đơn Việt Tây Tàu với ba đầu bếp
phụ trách. Khách muốn ăn cơm Tàu như Khê Ký, Quốc Tế cũng có mà muốn ăn
cơm Tây như “Au Bon Goût” khách cũng sẽ hài lòng. Có những món ăn được
nhiều người ưa thích mà mãi cho đến nay, những người Huế lưu lạc phương
xa, ở khắp nơi trên thế giới vẫn còn nhắc nhở khi nói đến tiệm ăn Lạc
Thành như: Phở Xào Mềm, Phở Áp Chảo, Y Phủ Mỳ Thánh, Cơm Chiên Dương
Châu, Vịt Bát Bửu, Gà Rút Xương, Cháo Bột Báng, Thịt Bò Vằm v.v...
Khách
có thể tự do chọn lựa bất cứ món ăn nào mà khách ưa thích trong 3 cái
thực đơn dài dằng dặc trước mắt. Khách muốn nhắm thử dĩa thịt gà bóp rau
răm kiệu Huế xem có khác chi với gà xé phay hay gà chặt kiểu Nam, kiểu
Bắc hay không. Khách muốn dùng món xúp măng cua gạch, món Tả Pí Lù của
Tàu xem có thích hơn món xúp rau cải (soupe légume) hay món cháo
Bouillabaisse của Tây chăng. Xin mời khách đến tiệm ăn Lạc Thành, khách
sẽ toại nguyện. Không những có tiếng về những món ăn ngon, mà tiệm Lạc
Thành đặc biệt được anh chị em học trò Đồng Khánh, Khải Định thập niên
50 nhắc nhở về các món tráng miệng (dessert) tuyệt vời như chè đậu xanh
đánh, chè hột sen, bánh kem sữa (Crème Flanc) v.v...Ngày nay nhiều người
Huế ở khắp năm châu bốn bể vẫn còn nhắc nhở chén chè đậu xanh vàng óng,
thơm mùi đậu xanh quyện với mùi vang trong chiếc chén thủy tinh trong
vắt với mấy viên đá đập vụn, đã từng làm mát lòng mát dạ bao người một
thời trai trẻ. Đó là một số tiệm ăn lớn và lâu đời ở Huế mà người Huế
thường nghĩ đến mỗi lần có ý định đi kéo ghế. Về sau càng ngày càng có
nhiều tiệm ăn lớn nhỏ hoặc chỉ chuyên bán một vài thứ đặc sản cũng rất
nên ghi lại ở đây.
Trên
đường Ngã Giữa bên cạnh rạp Hát Bội Bà Tuần có một tiệm chuyên bán thịt
bò tái, tên tiệm là “Cháu Bò Tái”. Vì ông chủ tên là Mai Văn Cháu và
quán chủ yếu bán thịt bò tái mà người Bắc gọi là Bê Thui. Bên dưới bảng
hiệu có thêm hàng chữ “Năm Dê - Bảy Bò”, các bạn có hiểu hàng chữ ấy có
nghĩa chi không? Rất đơn giản, ngày thứ năm bán thịt dê, ngày thứ bảy
bán thịt bò. Dê nướng, Dê xào lăn, Cà ri Dê, Bò Tái, Bò Nhúng Dấm, Bò
Xào Hành-Khoai Tây Chiên (pomme de terre frite) là những “món ruột” của
ông chủ và cũng là đầu bếp của quán ni. Hình ảnh mà khách qua đường còn
ghi nhớ dù đã hơn 40 năm qua là, cái cảnh ông chủ quán ở trần trùng
trục, mặc cái quần xà lỏn, ngồi bên lề đường quạt lò thịt nướng, không
biết dê bò chi mà thơm phưng phức “bắt rệu nước miếng”, khói bay mịt mù.
Tuy không đói lắm, khách cũng đành bước chân vào quán kéo ghế cái rột,
dù đang đi một mình, chưa có cái ý định đi kéo ghế theo cái nghĩa mà
người Huế thường dùng. Quán có món đặc biệt Thịt Dê mà Đàn ông Huế có
một số người không ăn vì không dám “phản phúc” ăn thịt “thầy mình”, còn
Đàn Bà Huế, mà nghe chữ dê là đã “kỵ”, là không ưa gần gũi giữa ban ngày
ban mặt chứ đừng nói chi đến chuyện ăn uống sợ lây bịnh. Có lẽ vì rứa
mà quán ế khách, nên một ít lâu sau, tiệm đành đóng cửa, và ông chủ đổi
nghề trở thành ông chủ kiêm tài xế, cho mướn xe du lịch, cho thuê xe đám
ma, đám hỏi, đám cưới. Bước qua xéo xéo bên kia đường, trước mặt rạp
xinê Việt Nam Phim (lúc trước mang tên Rạp Richard) là Tiệm Cháo Lòng
Đồng Ý. Khách sẽ hài lòng với dĩa lòng chay hấp dẫn và tô cháo nóng hổi
thơm lừng, nước cháo trong veo ngọt dịu. Quán từng vang bóng một thời dù
sau này cũng có vài nơi hay vài gánh cháo lòng rất ngon, nhưng người
Huế khi nhắc tới Cháo lòng là nhớ tới Cháo Lòng Đồng Ý. Cũng như nói đến
Mè Xửng Huế, người ta nhắc đến ngay Mè Xửng Song Hỷ, dù cho sau này Mè
Xửng Nam Thuận hay Song Nhân cũng nổi tiếng ngon không kém bao nhiêu.
Những năm về sau vì xứ Huế là nơi giáp địa đầu giới tuyến Bến Hải, tình
hình chiến sự sôi động nên nhiều người Huế sợ hãi, di cư vào Nam tìm
đường sinh sống. Trong số này có ông chủ tiệm Cháo Lòng Đồng Ý, ông ta
cũng mở một tiệm cháo mang cùng tên để phục vụ dân Sài Gòn và dân Huế
tha hương. Cháo không ngon, không đắt khách như ở Huế. Khi được hỏi lý
do, ông Giáp, nếu tôi nhớ không lầm là tên ông chủ, đã trả lời chắc nịch
như ri: “Cháo lòng cũng như Nem Huế mà nấu hay làm ở Sài Gòn không cách
chi ngon bằng nấu cháo hay làm nem ở Huế, bởi vì con heo Sài Gòn không
ngon bằng con heo Huế. Con heo Sài Gòn nuôi trong chuồng, ăn thực phẩm
gia súc pha chế sẵn, không hoạt động, thiếu chất tươi, thịt bở. Con heo
Huế, thả trong vườn, ăn cám và cơm thừa cá cặn, uống nước mả, thịt chắc
nên làm thức chi cũng ngon cả”. Một số người thông thạo đông y cho rằng
thịt lươn rất bổ dưỡng, nên thường lai vãng quán cháo lươn Lưu Hương ở
trên đường Hộ Thành, trong cửa Thượng Tứ, trước mặt vườn hoa Ba Viên.
Ngoài món cháo lươn đặc biệt ra còn có đủ các món Lươn um, Lươn xào lăn,
Lẩu lươn, v.v... Nhưng quán ni cũng chỉ bán được cho một số đàn ông
Huế, còn con gái đàn bà Huế ít khi ghé lại vì quý cô, quý bà không thích
ăn những con vật lạ như rắn, lươn, chình, chuột chó, nai dê, v.v... mà
chuyện chi các bà đã không muốn rồi thì các ông mà có thèm chảy nước
miếng thì cũng đành dang ra, đành bấm bụng chịu thua thôi. Tuy chuyện đi
kéo ghế hồi đó chủ yếu là có tính cách gia đình, nhưng càng về sau thì
chuyện đi kéo ghế có tính cách nhẹ nhàng hơn. Bạn bè học trò, trai gái
khi hẹn hò hay khi đói lòng cũng rủ nhau đi kéo ghế đơn sơ, cũng vui vẻ
và hợp với túi tiền học trò. Họ thường kéo nhau đến hiệu Mỹ Châu Anh ở
ngoài cửa Đông Ba, vừa ngon vừa rẻ ơi là rẻ. Tiệm bán chỉ có hai món
hoành thánh và mì sợi mà khi mô cũng đông khách, nhất là các cô cậu học
trò các trường công tư thục ở Huế. Ngày nay ở Huế còn có tiệm bánh khoái
nổi tiếng khắp nước kể cả nước ngoài, đó là tiệm Bánh Khoái Thượng Tứ
mà bào muội cũng là bào muội ông chủ Hiệu Ăn Lạc Thành. Nhưng nói đến
Bánh Khoái thì không thể quên được tiệm Bánh Khoái dưới chân cầu Đông
Ba, nằm trên đường Võ Tánh hơn nửa thế kỷ trước. Có thể nói người Huế
sành ăn uống thuở đó ai cũng có thưởng thức bánh khoái của Đông Ba ít ra
là một lần. Sẽ bị chê trách là có óc địa phương, cục bộ, hoặc thiếu
công bình, nếu không nhắc đến Kiốt (Kiosque) Phở Bắc Thăng Long ở bến xe
Nguyễn Hoàng, gần Cửa Ngăn. Năm 1954, theo làn sóng Người Bắc di cư sau
Hiệp Định Genève, Phở Bắc cũng xuất hiện và dừng chân ở Huế một thời
gian. Ban đầu vì tính hiếu kỳ, người Huế cũng đua nhau đi ăn thử cho
biết món ngon vật lạ của đất ngàn năm văn vật, nhưng không lâu tiệm đóng
cửa và chủ nhân cũng xuôi Nam tìm đường mưu sinh thoát hiểm khác. Có lẽ
một phần vì tay nghề của chủ nhân kiêm đầu bếp chưa cao, hoặc đụng phải
tính bảo thủ của người Huế, nên món phở Bắc chưa vượt qua được món bún
bò giò heo mà người Huế hằng ưa thích.
Món
phở Bắc sau khi du nhập vào thực đơn của người Huế, đã được người Huế
pha trộn, biến chế thành một thứ phở lai căng là Phở Huế, Phở Tàu, chứ
không thuần túy là Phở Bắc nữa. Nhất là các xe phở rong, bán về đêm trên
khắp các nẻo đường thành phố Huế... Phở ông Trọc, khác mùi vị phở ông
Bếp Phi, phở ông Bếp Phi khác phở anh Biên dù cho cả hai đều là đầu bếp
cũ của Tiệm Ăn Lạc Thành. Đúng là tự biên, tự diễn. Tuy thua keo đầu ở
Huế nhưng về sau cuộc chiến giành ngôi vị minh chủ trong làng ăn uống
giữa các đấu thủ Phở Bắc, Bún Bò Huế, Mỳ Quảng, Hủ Tiếu Mỹ Tho, e phần
thắng lợi nghiêng hẳn về phía Phở Bắc. Ngày nay ở khắp nơi trên thế
giới, ở đâu có nhiều người Việt định cư là có Phở Bắc có rau húng quế.
Dù là Phở Chiến hay Phở Hòa cũng đều mọc lên như nấm hùng dũng bên cạnh
một vài tiệm Bún Bò Huế hay Hủ Tiếu Sài Gòn rất khiêm nhường. Cũng sẽ là
một thiếu sót nếu bài viết này không nhắc đến một quán ăn rất độc đáo
từ tên hiệu cho đến món ăn đặc biệt Huế. Đó là Quán Cơm Âm Phủ, ở sau
lưng sân Vận Động Bảo Long (sau này đổi tên là Tự Do). Quán chuyên bán
cho khách có công ăn việc làm về đêm hoặc khách ăn chơi suốt sáng khi đã
đói lòng. Cái tên lạ lùng này đã khơi dậy sự hiếu kỳ không những cho
người dân Huế mà cả du khách tự phương xa. Cái tên lạ lùng này đã góp
phần cho sự tồn tại lâu dài của quán cơm cho đến ngày hôm nay theo
truyền thống “cha truyền con nối... nghiệp”. Đến Quán Âm Phủ khách sẽ
được thưởng thức một dĩa cơm gạo trắng muốt với thịt nướng thơm phức
kiểu Huế, cùng tôm chấy tươi, dưa gang bóp với nước mắm chanh với tỏi và
nem nướng đặc biệt Huế. Cơm và thức ăn đã ngon mà khách lại đang đói
lòng sau những giờ phút truy hoan trác táng thâu đêm nên càng cảm thấy
ngon hơn bội phần. Và có người nghĩ rằng nếu ở dưới Âm Phủ mà có cơm
nem, thịt nướng ngon miệng như ri thì chẳng ai sợ phải sa vào Âm Ty, Địa
Ngục A Tì nữa cả.
Bài
viết này giới hạn từ sau năm 45 đến những năm cuối thập niên 50 và đầu
thập niên 60 nên đã không nhắc đến những quán hàng về sau cũng rất nổi
tiếng như: Bún Bò Mụ Rớt ở đường Trung Bộ hay Bánh Khoái Lạc Thiện ở cửa
Thượng Tứ. Ngoài ra cũng có những hàng quán nổi tiếng nhưng không phù
hợp với ý nghĩa “đi kéo ghế” nên không được nhắc đến trong bài như: Bún
Bò Cà Phê Lạc Sơn, Cà Phê Phấn (cũng có bán ăn) trước mặt rạp ciné Tân
Tân, quán ăn Hiệp Thành trước mặt hiệu tạp phẩm Thái Lợi, v.v... Tất cả
đều nằm trên đường Trần Hưng Đạo.
Ngày
nay, bèo mây trôi giạt, được định cư ở vùng Tây Bắc nước Mỹ lạnh giá và
mưa gió dầm dề như mùa đông ở Huế. Dù xa cách ngàn trùng quê cũ, hình
ảnh những lần “đi kéo ghế” ở thành phố quê hương vẫn thường đêm hiển
hiện trong tôi với mùi mỡ hành, mùi thịt nướng khói bay mịt mùng ngào
ngạt. Cứ mỗi cuối tuần hai vợ chồng già hỏi nhau:
“Chừ mình đi kéo ghế ở chỗ mô hè?” Rứa là các con tôi nhao nhao reo ầm lên:
“Dim
Sum, Hongkong Seafood, Yankee Grill...” Và chúng tôi đành gật đầu OK!
OK! với nhiều ngậm ngùi thương nhớ một thời đã qua, nơi quê nhà xa tắp..
. . .
CƠM HẾN
Đã nghe ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành...
Mời anh buổi sang chân thành món quê
BÁNH BÈO
Tôm chấy hồng thắm cánh bèo
Dẻo thơm bột gạo quê nghèo nên thương
Hẹn em ngồi quán ven đường
Bánh bèo kết mối tơ duyên đôi lòng
BÁNH NẬM
Mảnh mai xanh sắc lá dong
Mềm mại bánh nậm ấm trong tay người
Nhụy hồng bột trắng tươi mươi
Xuýt xoa nước mắm ngọt lời tỉ tê
BÁNH BỘT LỌC
Bột trong bọc thịt tôm hồng
Lá xanh em gói ươm nồng hương yêu
Bánh ngon nước mắm cay nhiều
Mời anh bữa lỡ ban chiều cùng em
BÁNH PHU THÊ
Lá dừa ôm bột lọc trong
Ngọt ngào thơm nhụy đậu xanh ửng vàng
Phu thê vui chuyện xóm làng
Mừng nhau tác hợp thiếp chàng hòa duyên
BÁNH RAM ÍT
Này em ăn ngậm mà nghe
Ram vàng ít dẻo càng mê vị tình
Mới hay đặc sản Huế mình
Sắc hương dân dã cung đình tìm nhau
MÈ XỮNG
Thơm tho mềm dẻo ngọt ngào
Mè vàng bột nhuyễn ôi chao! Tuyệt vời!
Món quà xứ Huế em ơi
Kẹo ngon mẽ xững tặng người tình chung
TÔM CHUA
Nguyên là đặc sản Gò Công
Theo bà Từ Dũ ra cùng Hương Giang
Tôm hồng, ớt đỏ, riềng vàng...
Vị chua thấm lưỡi nhớ hàng thịt phay (thịt heo luộc)
NEM HUẾ
Mời em khai vị món nem
Em nem anh chả tình thêm mặn mà
Nem thơm, chua, ngọt đậm đà
Nhờ ai quết nhuyễn thịt thà đêm đêm
CHẢ HUẾ
Mời anh thử miếng chả này
Nâng ly hào sảng hương say tận lòng
Cung đình chả phượng nem công
Đôi ta nem chả vốn dòng dân gian
CHÈ HẠT SEN
Hạt sen vừa bổ vừa thanh
Tan trên đầu lưỡi ngọt lành hương xưa
Chè sen mời gọi người thơ
Mát lòng du khách ngẩn ngơ bạn tình
CHÈ BỘT LỌC BỌC THỊT QUAY
Ngọt ngào bùi béo tìm nhau
Thịt quay nằm giữa trắng phau bột mềm
Quen nhau tình đã nên duyên
Chè ngon xứ Huế ngỡ quên đường về
CHÈ ĐẬU NGỰ
Thức ngon xưa tiến quân vương
Tinh hoa trời đất đượm hương kinh thành
Chè đậu ngự mát và thanh
Đêm, dâng chén ngọc an lành châu thân
Hãy yêu Huế như Tây “nó” yêu
07:47 | 19/04/2012
Lần nào đưa khách đi Huế, tour căn bản của tôi cũng là: đến
Đại Nội vào giờ tắt nắng (để thấy được một triều đại đã hết), ngồi xích lô qua
cầu Tràng Tiền trong ánh đèn đổi từ tím sang xanh sang hồng sang vàng (đại loại
thế, để thấy được sự mâu thuẫn trong cái gu của Huế), lên đàn Nam Giao vào sáng
sớm tinh mơ (để có cảm giác đi chầu buổi sớm trước trời đất), hoặc cũng sáng
sớm nhưng lên đồi Vọng Cảnh. Thế những giờ khác trong ngày, khi nắng vẫn còn
thì sao? Thì tôi đưa khách đi thăm lăng, mà thích nhất là đi dọc con đường nối
từ đàn Nam Giao đến lăng Tự Đức. Con đường dốc dốc, cây xanh nhiều, vắng vẻ với
thỉnh thoảng vài chiếc xe du lịch lừ lừ đi ngược lại. Festival Huế lần này tôi
không đến Huế, nhưng tin chắc con đường ấy đã được chỉnh trang cho đẹp hơn và
rất nhộn nhịp.
Rồi đọc báo, đọc mạng mới biết, dọc con đường ấy, các nghệ sĩ
ở Huế đã thực hiện dự án Phố Tranh. Trải suốt 4km đường là 2.012 bức
tranh treo: trước chùa, bên cổng nhà, bên bãi đất…, được coi là một dự án vì
cộng đồng (nhất là khi số tiền nếu bán được tranh sẽ dành cho việc giúp trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn).
Cộng đồng, công cộng, môi trường, sinh thái... là những chữ
dạo này có vẻ được nghệ thuật quan tâm hơi kỹ. Một mảnh đất màu mỡ để nghệ sĩ
nhảy vào khai thác và dễ xin tài trợ. Tôi cho là tốt thôi, hơn là chỉ suốt ngày
vẽ chân dung cái mặt tôi hay cái đùi anh, nhưng với chữ cộng đồng, một khi áp
dụng không đúng thì cũng có hại (chứ không phải chỉ có hoặc “lợi” hoặc “vô hại”
như nhiều người vẫn tưởng). Mà khi nghệ thuật đã có hại thì cũng như mìn: mìn
nhỏ sát thương ít, mìn to sát thương nhiều.
Phố Tranh như báo đăng theo tôi là một thứ mìn to, sát thương nhiều.
Như thế 4km đường đẹp của Huế thời gian Festival qua đã bị làm
hỏng vì treo đầy những bức tranh này sao, tôi tự hỏi? Con đường
dẫn đến nơi yên nghỉ của các vị vua đã không còn vẻ mênh mang và u tịch như nó
phải có nữa à? Treo chừng đó tranh suốt đường thì có khác gì căng đầy biểu ngữ,
quảng cáo xấu? Tôi nhớ cảm giác của tôi mỗi khi đi trên con đường này là nghĩ
về sự lựa chọn nơi chôn cất của các vị vua, về đời người đến như lửa bùng rồi
tắt... Chắc chắn chỉ có thiên nhiên mới khiến người ta nghĩ về những thứ thuộc
về sống, chết. Khi đem 2.012 bức tranh lổn nhổn to nhỏ, màu sắc rối loạn, nét
vẽ nguệch ngoạc ra treo một cách cẩu thả trên con đường này, nhóm họa sĩ tự
nhận là yêu Huế có nghĩ rằng mình yêu Huế thật không? Và nếu thật thì yêu như
vậy có đúng cách không?
Đi với khách du lịch nhiều, tôi để ý thấy các cô gái Việt Nam
khi có người yêu hay chồng là người Việt hoặc châu Á thường sẽ rất quan tâm đến
vẻ bên ngoài. Họ trang điểm nhiều hơn những cô gái có người yêu hay chồng là
người phương Tây - những phụ nữ này thường để mặt mộc, không tô son,
bôi phấn, và người mình hay lấy làm lạ “sao Tây nó thích?” Nhưng ở họ toát
lên một sự tự tin và sống động của những người được yêu “vì tôi là tôi là tôi
là tôi”...
Yêu Huế, tôi nghĩ, cũng nên như Tây yêu ấy. Để Huế được tự
nhiên, để sông của Huế được yên đi, đồi của Huế được yên đi, để nhịp sống của
Huế được thảnh thơi là đã đủ đậm đà và không quên được. Đừng khoác cho Huế quá
nhiều sen thả, tượng to nhỏ kín bờ sông, tranh sặc sỡ chen lá cây ngọn cỏ...
Người Huế có thể không nhận ra, và nghĩ là làm thế thì Huế đẹp hơn, nhưng người
ở xa như tôi đây thì thấy trang điểm như thế chỉ làm Huế tầm thường đi hẳn,
thiếu cái tự tin cần có của bậc vua chúa. Mà điều đó, tưởng họa sĩ Huế thì
phải nhận ra rõ hơn người thường chứ?
Long Xuyên
THIÊN NHIÊN THÚ VỊ
Con vắt con đỉa bị chặt
làm đôi, nó biến thành hai con. Đem băm vụn nó ra thì mỗi mảnh vụn biến thành
một con đỉa mới, con vắt mới. Đem nó đi đốt thành than, thì phần thịt nào chưa
cháy hết vẫn có thể sinh ra con vắt mới. Loài sinh vật không xương này sống dẻo
dai và có khả năng phát tán rất nhanh. tưởng như không có gì trị
nổi nó. Nhưng những khu rừng có vắt chỉ cần thả mấy con dê thì chỉ
trong một tháng sẽ chẳng còn con vắt mào. Máu loài dê vắt hút no căng nhưng
không tiêu hoá nổi làm con vắt chết và tự phân huỷ. Con đỉa thì thả xuống vôi
là nó cũng chết đứ đừ luôn.
Con dê trên rừng có lỡ ăn phải vài cái lá ngón không sao, nhưng ăn nhầm vào cái lá cây có con bọ nẹt thì dê chắc chết mà không thể cứu nổi. Ngày xưa, giặc Pham Nhan bên Tàu cũng có khả năng hồi sinh nhanh như loài vắt. Cứ chặt đầu nọ thì mọc đầu kia. Nhưng nếu bôi máu chó vào thanh gươm rồi chém thì Phạm Nhan không còn mọc đầu ra được nữa, phun máu mà chết. Ở Sapa có một loại cá thịt rất thơm ngon, nhưng trứng của chúng ai lỡ ăn vào thì bị ngộ độc ngay, không kịp cấp cứu là bỏ mạng như không. Con cóc yếu đuối nhưng con vật nào vô tình ăn phải trứng cóc cũng chết chắc! Chính vì thế mà loài cá thịt thơm ngon kia không mất giống, còn con cóc yếu đuối vẫn tồn tại. Con cá chình, cá đuối giữa biển khơi có cái đuôi biết phóng ra điện để tự bảo vệ mình, dù hai loài cá này khá hiền lành và còn yếu đuối, nhưng thấy nó những con cá hung bạo cũng phải tránh xa. Con cua có mai giáp, đôi càng chắc khoẻ bắt nó không dễ, nhưng con ếch đến vỗ nhẹ là cua rúm cẳng đẻ cho ếch nuốt. Con rết nọc độc ghê gớm, có thể gây nguy hiểm cho con người. Nhưng trước con gà thì rết đành chịu chết mà không làm được gì. Đem rết bỏ vào trong vòng tròn nhớt sên, rết cũng nằm so không thoát ra nổi. NGƯỜI VIỆT GỐC ỚT
Hoàng Lão Tà
Xe lam Sài Gòn: Chỉ còn là hoài niệm! Thập niên 60 của thế kỷ trước, đặt chân đến Sài Gòn ai mà không bị “hớp hồn” bởi một đô thành phồn hoa đô hội bậc nhất với những đại lộ thênh thang, dập dìu xe cộ nhưng rất thông thoáng. Phương tiện đi lại trên đường phố Sài Gòn chủ yếu là xe đạp - xe gắn máy chỉ có vài loại phân khối nhỏ (50cc trở xuống) như Honda Damme dành cho nữ, Honda SS67 dành cho nam; xe máy đạp có Vélo Solex, Mobylette... Đặc trưng của phương tiện giao thông công cộng ở Sài Gòn lúc này ngoài xe xích lô “truyền thống” chỉ có thể là xe lam. Loại xe chở khách ba bánh Lambro 550 và Lambretta. Hồi đó lộ trình xe lam giăng kín Sài Gòn như xe buýt sau này, nhưng điểm khác biệt của xe lam là không có trạm dừng cố định cho khách lên xuống. Ai muốn đi xe lam cứ việc ra sát vệ đường vẫy tay đón. Xe dừng lại bất cứ chỗ nào cho khách xuống! Xe lam chở hoa Tết vào nội thành
Thiết kế của xe lam chở khách khá đặc biệt, chia làm hai “toa” hẳn hoi. Phần đầu xe là nơi tài xế ung dung ngồi một mình để cầm cái càng lái giống như ghi-đông xe gắn máy, mặc dù chở tới cả chục người nhưng xe lam cũng vô số tay như xe hai bánh Lambretta. Dưới ghế ngồi của bác tài là thùng chứa máy xe, hễ xe chết máy hay “xịch đụi” là bác tài phải nhảy xuống đường mới giở yên lên được rồi dùng một sợi dây thừng kéo cho máy nổ (giống như vận hành máy phát điện gia đình) hoặc tra dầu, chùi bu-gi cho máy xe. Lúc đông hành khách, “toa” sau hết chỗ, bác tài cũng sẵn sàng ngồi thu gọn lại ngay giữa yên để có thêm chỗ cho vài ba vị khách ngồi ké vào hai bên, vai kề vai với tài xế rất thân tình. Vô số chuyện tiếu lâm được sáng tác từ thiết kế “buồng lái mở” độc đáo này. Điển hình là chuyện sau: trên chuyến xe lam đông khách, hai bên bác tài là hai bà khách sồn sồn đang ngồi kề vai tựa vế, bỗng đâu xe “pan” (chết máy), bác tài nói: “Hai bà xuống cho tui đạp máy cái coi”, là người miền Nam nên bác tài phát âm “đạp máy” giống như “đạp mái” khiến hai bà hàng bông sửng cồ tru tréo: “Tổ cha ông chớ... giữa đường giữa sá mà đòi đạp mái!”.
Thùng xe phía sau chở được khoảng 8 đến 10 hành khách. Khách ngồi trên hai hàng ghế dài đặt dọc theo thùng xe, song song nhau. Nếu hai người đối diện đều “chân dài” thì bốn đầu gối thế nào cũng đụng nhau lốp cốp mỗi khi xe lam thắng gấp, không muốn khua thì hai cặp giò phải lồng so le vào nhau trông rất “âu yếm”, khéo liên tưởng một chút thì chẳng khác gì cảnh “nóng” trong phim ảnh! Có bữa “hên”, tôi - cậu học trò đệ nhứt cấp (cấp hai) tình cờ được ngồi “so le đầu gối” với mấy cô nữ sinh diện áo dài quần lụa trơn mát, cảm giác rất... biết ơn xe lam! “Hên” nữa, có hôm tôi ngoắc nhằm chuyến xe lam đầy nhóc khách, chú bé lơ xe nhanh nhảu hô to: “Bà con khép chân vô giùm” rồi nhét tôi ngồi ở khoảng trống hiếm hoi giữa hai hàng ghế, nơi có những cặp đùi thiếu nữ mát rười rượi không biết cất đi đâu, thế là khách cứ ngây ngất mơ cho chuyến xe lam chạy thật chậm và con đường thì dài vô tận... Nhưng có hôm “đi không coi ngày”, vớ trúng hai bà bán thịt cá tan chợ đón xe lam về nhà, ngồi “kề vai tựa vế” giữa hai bà chừng vài cây số là bao nhiêu mùi chợ búa đã lây sang hết quần áo của mình. Không ít lần khách phải ngồi giữa hai hàng gối vế, mặt quay về phía sau xe, chân thò ra ngoài buông thõng xuống mặt đường. Xe lam trữ tình, hài hước và lếch thếch là vậy! Trong khi dàn đầu của xe lam có bộ dạng giống mặt một chú hề vui nhộn thì ở thùng xe phía sau biết bao câu chuyện “tâm lý - tình cảm - xã hội” lâm ly diễn ra. Lạ là trên cái phương tiện rẻ tiền, dằn xóc, chật ních như xe lam mà cũng nảy sinh được không ít những câu chuyện tình lãng mạn. Chàng trai tình cờ ngồi kề cô gái không quen biết, tức cảnh sinh tình anh bèn ngân nga một bài nhạc bình dân rất nổi tiếng: “Trên chuyến xe lam đông người chiều nao. Xui mình không quen mà ngồi bên nhau. Trời mang nhiều trớ trêu chi. Người chưa hề biết quen gì. Sao ngồi gần như tình nhân si...”. Ngồi sát rạt nhau dễ nảy sinh tình cảm bất ngờ nhưng cũng dễ nảy nở... tệ nạn, nếu chàng mê mẩn hóa ngây ngây dại dại thì coi chừng khi xuống xe cái bóp đã không cánh mà bay theo “người tình lỡ”! Đi xe lam ngồi thò chân ra ngoài là… bình thường
Sài Gòn - TPHCM phát triển rất nhanh, cứ khoảng chục năm là “xếp xó” một vài loại phương tiện công cộng. Nếu khoảng thập niên 1950 người Sài Gòn vẫn còn thấy xe thổ mộ (xe ngựa) ra vô chợ Bến Thành thì đến những năm đầu 1960 xích lô đạp, xích lô máy là phương tiện vận chuyển thuộc hàng “VIP”. Thập niên 1960 sang đầu thập niên 1970, xe lam cùng taxi chiếm lĩnh đường phố, kế đó là sự xuất hiện của xe buýt... Tưởng xe lam đã trở thành dĩ vãng, nhưng gần đây khi thực trạng giao thông trở nên rối tinh rối mù, đường phố liên tục kẹt cứng thì không ít người đã nhớ đến chiếc xe “vừa trữ tình vừa lếch thếch” một thời. Ở nhiều thành phố trên thế giới, từ bến xe bus hay metro người ta thoải mái đi bộ tới chỗ làm việc hoặc về nhà nhưng ở ta thì vỉa hè đã bị chiếm cứ để buôn bán hoặc dựng xe, việc cuốc bộ rất khó khăn vì phải vượt nhiều “chướng ngại vật”! Các khoảng cách đó cần được nối lại bằng loại xe truyền thống của Sài Gòn trước đây là xe lam. Xe lam có thể len lỏi trong những đường phố nhỏ, chật chội vốn là “đặc sản” của Sài Gòn. Một hãng xe nội địa có thể dễ dàng thiết kế, đóng mới loại “xe lam” chở 8 - 10 người, sử dụng máy xe gắn máy đời mới loại 250 phân khối. Xe buýt lớn sẽ vận chuyển khách ở ngoài khu trung tâm thành phố; còn ở các quận 1, 3, 5, 10, Bình Thạnh, Phú Nhuận... “xe lam đời mới” sẽ dệt mạng lưới chuyên chở từng người dân thành phố đến tận cửa nhà hay đầu hẻm, qua đó giảm đáng kể lượng xe taxi đang tràn ngập... Xe buýt cỡ lớn không vào trung tâm, lượng xe taxi giảm mạnh đồng nghĩa với việc TPHCM có thể “hạ nhiệt” nạn kẹt xe trầm kha lâu nay.
Biết đâu xe lam sẽ trở lại thời hoàng kim! Chỉ tiếc “xe lam đời mới” chắc thiết kế thùng xe rộng rãi hơn nên sẽ không còn cảnh hành khách “kề vai cọ vế” lãng mạn của xe lam truyền thống. Bởi vậy sẽ có nhiều người, giống như tôi, vẫn nhớ làm sao những chuyến xe lam Sài Gòn thập niên 1960!
HỒ THI CA
Đa sắc ẩm thực Sài Gòn
Khi so sánh với vùng miền khác, người ta thường nói: “Ẩm thực Sài Gòn không có bản sắc riêng”. Tính người Sài Gòn vốn thoải mái, dễ chấp nhận ý kiến khác biệt với mình nên đồng ý luôn với nhận xét này.
Thế nhưng, dù mang tiếng “thiếu bản sắc”, ẩm thực Sài Gòn vẫn lừng lững phát triển, ngày càng đa dạng và hấp dẫn đến nỗi nhiều người mê ẩm thực, từng cất công du lịch qua nhiều nước để thỏa mãn thú vui này phải kết luận: “Ở Sài Gòn nếm cho hết các món ngon cũng đủ sướng miệng”. Hàng quán Sài Gòn cứ phát triển với cung cách phục vụ ngày càng chuyên nghiệp. Các tên tuổi ẩm thực ở vùng miền khác đã đến Sài Gòn mở quán kinh doanh như phở Lò Đúc, chả cá Lã Vọng, nem Ninh Hòa, gà Tam Kỳ rồi đến quán ăn Hàn, Thái, Ấn, Nhật, Ý... nhiều không kể xiết. Để giữ chất lượng và uy tín cho tên tuổi của mình, nhiều quán đặc sản sẵn sàng tận dụng những tiện ích của ngành hàng không với những đường bay nhằm duy trì nguồn nguyên liệu “chất” nhất và nguyên gốc nhất. Người sành ăn ở Q.1, Q.3 hay Phú Nhuận, Bình Thạnh chưa chắc sành sỏi về những món ăn ở Chợ Lớn. Khu này với nền ẩm thực Trung Hoa phong phú luôn là một điểm đến hấp dẫn. Món Chợ Lớn chắc hẳn qua thời gian đã được cải biên cho hợp khẩu vị và phong thổ ẩm nóng của Sài Gòn, trở nên đỡ ngấy vì nhiều dầu mỡ nước xốt như món ăn Hoa trên đất Trung Hoa. Vả lại, bản thân ẩm thực ở Chợ Lớn cũng quá phong phú với các trường phái của người Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hẹ... Có một ca khúc hài (nhái bài hát Bến Thượng Hải) đã phác họa vẻ phong phú này:
Người Chợ Lớn, người bên Tàu, người Hồng Kông hễ thấy nhau là mời bánh bao
Đã vậy, thực đơn tàu luôn được bổ sung các món từ Đài Loan, Singapore hay Hồng Kông, đều là những thiên đường ẩm thực. Từ những dịp gần tết Nguyên đán hồi trước 1975, dân Sài Gòn đã thích vào Chợ Lớn mua sản vật lạ như trái hồng khô Hồng Kông, rượu ngũ gia bì, lạp xưởng Đài Loan... nhập về từ các xứ đó.Tuy Phúc Kiến, tuy Hải Nàm, dù Triều Châu tới đâu cũng mời ăn mì Mì xá xíu, mì vịt tiềm, mì bồ câu, cái tô sau là hoành thánh tôm Kêu thêm đĩa hủ tíu xào, xào mực tôm, cá viên hẩu xực làm sao ... Còn ngon nữa, thì tả pín lù Người Phúc Kiến nổi danh là vịt nấu chao Dê bát bửu thêm yến sào Người già nua tới đâu cũng trẻ lại mau… Món ăn Sài Gòn thiếu bản sắc vì không ngại du nhập món ăn xứ khác để làm thành của mình. Món hủ tíu người Tiều (Triều Châu) vào Nam bộ cuối thế kỷ 19 và chỉ nấu bằng thịt heo, xương heo và sau này với cá, gà ăn cùng bánh tráng ướt thái sợi. Có người cho rằng đây là món điểm tâm đặc trưng của người Tiều Nam bộ, không thấy có ở Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Thượng Hải... Rồi hủ tíu chia thành nhiều nhánh, đều nổi tiếng như hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Nam Vang, và không ai nấu với thịt bò. Bây giờ người Việt, người Hoa gốc Quảng Đông, Hải Nàm cũng nấu hủ tíu. Khu chợ cũ Hàm Nghi có nhiều tiệm nước (tên cũ của quán bán nước trà có ăn nhẹ) của người Quảng Đông từ đầu thế kỷ 20. Tiệm của người Hải Nàm gọi là trà gia thường có chữ Viên, tỷ như Yến Phương Viên bán hủ tíu cá. Người Hải Nàm (gốc đảo Hải Nam) thường đi tàu biển, làm bồi cho Tây nên khi mở tiệm nước thường có bán kèm bánh tây như patéchaud, soux cream... Ở đường Tôn Thất Đạm, Q.1 giờ vẫn còn quán hủ tíu cá Nam Lợi, một quán của người Hoa tồn tại khoảng 60 năm nay. Quán Nam Lợi bán hủ tíu cá, hủ tíu gà và gà cá ăn chung. Sợi hủ tíu có loại nhỏ và loại to bản, lớn hơn bánh phở và có cả mì sợi tươi. Cá lóc tươi bỏ xương, xắt lát mỏng. Gà thịt dai vừa phải, ngọt thịt. Tô hủ tíu rắc nhiều tiêu, nước lèo có vị ngọt dịu của cá, gà, thoang thoảng mùi mực khô và xương hầm. Trên bàn, bày thêm bánh patéchaud, ai thích thì ăn. Bánh ngon, mềm nhưng không dai, nhân đầy, thịt đậm đà. Việt kiều về đây chen chúc trong không gian chật hẹp cùng dân Sài Gòn, xì xụp ăn giữa tiếng hô ì xèo của chủ tiệm “cá liệu” (thêm đồ ăn), “dùy phảnh”(hủ tíu cá). Về món ăn ai cũng biết: phở. Nhưng con đường nào để phở Bắc vào Nam còn rất lờ mờ. Nhà nghiên cứu Lý Lược Tam, gốc Triều Châu, từng sống ở Lái Thiêu trước 1945 kể trong một dịp hàn huyên: phở thoạt đầu là thức ăn của người bình dân, bán trên xe đẩy đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Trước 1945, người ta nấu phở khi có thịt trâu bò đưa về do chết vì bom đạn. Phở theo chân những người Bắc vào ký công tra làm phu cao su ở Lộc Ninh, nay thuộc Bình Phước. Đến năm 1945, do loạn lạc, số người này bỏ đồn điền chạy về vùng Lái Thiêu và được những đồng hương ở đó giúp vốn mở quán hay xe đẩy đi bán phở. Lúc đó người Bắc (dễ nhận ra do nhuộm răng đen) bị Tây lùng bắt nên một nhóm trốn về Sài Gòn đông đúc. Họ vào cái hẻm bên cạnh rạp hát Casino (góc Lê Lợi - Pasteur, nay không còn) bày bàn phở. Lúc đầu, chỉ có món phở tái nêm nước mắm. Sau bán thịt tái không hết, họ luộc thịt làm thêm phở chín. Đầu những năm 1960, người Tàu Chợ Lớn chế ra tương đỏ, tương đen và phở tiếp nhận luôn yếu tố ngoại lai này. Sau đưa món chanh tươi vắt vào nước lèo tạo vị ngọt thanh, thêm giá trụng, hành chần, rau ngò gai, quế, và bây giờ có cả rau ngổ, giá sống và hành tây xắt mỏng. Phở Sài Gòn đi một hành trình dài để lột xác, ăn kèm nhiều thứ nhưng không đi quá xa kiểu nấu từ miền Bắc nên giữ hương vị đậm đà, dù ít hay nhiều béo, có hay không rau. Giới trẻ Sài Gòn thích món bò bía. Nó hấp dẫn vì có vị thơm mát của rau, củ sắn (củ đậu) luộc chín và xà lách gói trong bánh tráng mỏng. Chấm với tương ngon có trộn đậu phộng giã nhỏ, nó cung cấp thêm vị mặn ngọt của con ruốc rang, lạp xưởng ướp. Có người thắc mắc không có thịt bò mà gọi “bò bía”. Tiếng Triều Châu, pò nghĩa là bạc, mỏng. Pía là bánh. Bò bía hay pò pía là cái bánh cuốn mỏng trong có thức ăn. Món này của người Triều Châu, có hai loại mặn và ngọt. Bánh ngọt có nhân kẹo bột, rắc mè, dừa, và ít phổ biến hơn bánh mặn. Món gỏi đu đủ khô bò vừa cay vừa đậm đà từ miền Bắc đi vào Nam nhưng cũng xuất phát từ người Hoa sống ngoài đó. Danh xưng là gỏi khô bò nhưng miếng thịt lại là phổi, gan, lá lách bò vốn mềm mại, thẩm thấu tốt hương vị đậm đà của hắc xì dầu, gừng. Khu chợ cũ Hàm Nghi hình thành một món ăn kỳ lạ và khoái khẩu với người Sài Gòn bình dân cách nay nửa thế kỷ. Đó là món xà bần, hay còn gọi là món lâm vố (rabiot). Lai lịch như sau: trong tiệm nước, ngoài đồng lương, người phục vụ được hưởng quyền lợi khác tùy theo công việc. Bồi bưng bê thức ăn hưởng tiền “bo” từ khách. Đầu bếp không tiếp xúc với khách thì hưởng... thức ăn dư của khách. Mỗi ngày, họ đổ thức ăn dư vào xô và bán ra. Người mua cho tất cả vào nồi, bắc lên lò nấu thành một món xà bần sền sệt. Trong đó, có nhiều cục thịt bò còn nguyên, cá bống chiên, thịt quay, hay đôi khi là cục nấm đông cô thơm lừng. Do nấu đi nấu lại, thêm gia vị và muối, món này càng đậm đà, giữ được lâu. Giới phu phen và cả công chức thời đó thiếu chất thịt trong bữa ăn nên không ngại ăn đồ thừa, buổi trưa ra mua một tô ăn tại chỗ với bánh mì hay cơm với giá 2 cắc, rẻ hơn giá tô hủ tíu, ai cũng ăn được và thường hết sớm. Sau 1975, món này hoàn toàn biến mất. Người sống ở Sài Gòn có thể kể vanh vách những món ăn đặc trưng ở nhiều vùng đất khác, nhưng nói về món đặc sản Sài Gòn thì... hoang mang. Nhưng có hề chi, khi ra đường sẽ gặp bao món ăn thơm ngon. Nhớ chuyến du lịch Singapore thì ăn cháo ếch đường Lê Anh Xuân, thích cơm Hàn thì đến phố Thăng Long, cơm Nhật thì ra Lê Thánh Tôn, ăn dim sum thì vô Hà Tôn Quyền, cơm Thái thì ra Bùi Viện. Cơm Huế thì quán Ruốc, Ngự Bình, cơm Bắc thì vô khu sân bay, mì Quảng thì ra ngã ba Cống Quỳnh, muốn mì vịt tiềm thì ra chợ Lacaze - Nguyễn Tri Phương. Còn chè, cà ri, cháo lòng, bột chiên, cơm tấm bán theo quán riêng. “Ẩm thực Sài Gòn thiếu bản sắc”, nhưng không thể chối cãi rằng món ngon ở khắp nơi thích tụ về Sài Gòn (cũng như người đẹp, ca sĩ hay nhân tài các ngành nghề thích tụ về) để tồn tại và phát triển trong một hành trình riêng của nó, để làm nên một khuôn mặt đa sắc cho đời sống ẩm thực Sài Gòn. Sự đa sắc đó có thể gọi là bản sắc ẩm thực kiểu Sài Gòn được chăng?
Phiên An
| ||
Lang thang trên mạng
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)