trong lò lửa chiến tranh tôi chỉ là thỏi sắt
với ngày tháng trái cây treo rực đỏ đầu cành
lao đầu vào tuyệt vọng
nên muốn thố lộ cùng em
đêm tối mùa Đông
cửa ngõ hồn tôi không đèn không đuốc
dù ngọn nến thắp lên để tiễn chân một ngày
theo điệu kèn đưa ma của ban quân táng
dù hư vô đã trở về từng giọt nước
từ nhà xác khổng lồ
khu rừng đang đứng gác
bên hành lang giòng sông trần tình cuộc chiến
những lũy thành dựng lên từ tiếng kêu hoang
với mảnh trăng im lìm trong cơn sốt rét
dưới chân kỳ đài dựng bia tử sĩ
tôi thấy lá cờ vàng bọc áo quan thủy tinh
giòng nước đen vẫn im lìm trôi
như những lời cầu nguyện
tôi nhìn thấy tháp chuông
mưa thì vẫn không thôi ru hoài điệu cổ điển
mưa vẫn không thôi ru hờ trên cao
núp dưới tàn cây sồi những ngôi nhà cổ kính
thánh thần đã ngủ yên
trong chiếc nôi thủy thạch
các phiên khúc trùng âm nhức buốt
của người nghệ sĩ cổ truyền
những tiếng ngũ âm chảy trên gỗ quí
như nốt ruồi cô đơn
di động trong tim
bóng tối Việt Nam
mấy nghìn năm trên thành quách này
đã vùi chôn trong lòng thiên thể
trên cánh tay vàng úa của mùa Đông
nổi chết truyền đi qua từng chiếc lá
tôi nghe tiếng động cơ của chiếc xe đêm
âm thầm làm vệ sinh cho thành phố
đang tiến về từ các cống rãnh
như một lũ chuột đồng
tôi thấy người vô danh đi trên vĩa hè
tìm kiếm người thân yêu trên bảng số
khi trời đổ mưa
tôi thấy người chị
tay cầm nén nhang
với vầng mây cô đơn trải làm khăn chế
tôi thấy người lính trẻ
chĩa súng dài trên mặt nước
với giòng sông
tôi thấy đứa trẻ mồ côi
ngước nhìn ảnh cha
với hình ảnh tương lai trên chiến địa
tôi vẫn thấy thành phố nằm ở đó
ôm em trong vòng đai an toàn
của kẽm gai cọc sắt
tôi trú ẩn ngoại ô
từng đêm đen mất ngủ
con đường tôi đến thăm em
cửa thành thường đóng kín
tiếng côn trùng vọng mãi đêm đêm
tôi thấy dưới ánh đèn khuya
gương mặt Việt- nam vỡ ra từng mảnh
trên bức tượng già của Đại-nội
em đã đóng kín cổng giờ nầy
gió từ bức tường câm phả lại
trên đầu tôi
bầu trời căng như một cánh cung
sợi tóc chĩa vào lòng đêm
như những mũi tên không kỳ hạn
đang trổ một con đường.
NGÔ KHA -Huế 11.69
NHƯ MỘT ĐƯỜNG DÂY HÚT GIÓ
tặng Ngô Kha
Từ biển cả mênh
mang với những cánh đồng cát trắng
tôi trở về thành
phố ngủ yên
buổi chiều thức
dậy trong khe núi
đá khô chờ giọt
mưa rưng rưng
ôi quê hương của
một dòng sông
với những triền
ngô tỏa mềm ánh sáng
những con đò đan
những vết thương
lên mình nước
dàn đi
những mảnh đời rách nát
tôi trở về để
nhìn tôi thiêu thân
và nhìn em đội
vòng gai hận thù rướm máu
những ngọn đuốc
năm xưa thắp màu hỏa hoàng lên áo ấy
và chiều buồn ru
mình vào tiếng ve
những cánh dơi
bay về cổ thành
và em làm giọt
mưa lăn xuống má
ấy thương yêu
gầy trong vành nón
và khổ đau lay
từng gót chân nai.
một buổi mai tôi
tung tăng ngoài lộ
như bóng mây
hồng còn đợi nắng phất phơ
tôi ngửa mặt đón
làn sương mai
từ mẩu tre ngà
khum vòng tay gió biếc
em lặng lờ như
tiếng hát
trong vườn cây
vả đã đơm bông
tôi níu chùm hoa
dâng một ngày đã mất
và hương hoa làm
ngây ngất hồn tôi
tôi đưa tinh tú
về bên dẫy núi
đón tay em từng
ngón vuốt ve
và thảm cỏ thở
mùi tóc trầm
và viền môi
quyện áng mây đưa
tôi ngửa mặt
nhìn tôi trong ánh mắt
thấy em về trong
cánh bướm hư vô.
vào trong ngõ lá
thuôn xác xơ màu tưởng niệm
tôi lạc mất tôi
trong thành phố và em
khi những bước
đi của loài rắn quanh co
còn vần vi bên
trái táo
những vết chân
của loài rất độc
còn cày sâu trên
vừng trán dòng sông
những bụi cỏ lấp
dần tiếng hót
của loài chim
mang định mệnh trong hồn
tôi ngỡ ngàng
đuổi theo em như một đường dây hút gió...
Huế, 1969
DIỄM CHÂU
(Tạp chí Đất Nước số 14, tháng
10-1969)